VĂN XUÔI CÔNG GIÁO ĐƯƠNG ĐẠI-Nhận dạng

BẠN CÓ THỂ ĐỌC CÁC BÀI VIẾT CHÍNH CỦA BÙI CÔNG THUẤN THEO LINK: buicongthuan.blogtiengviet.net/disp/abc

***

VĂN XUÔI CÔNG GIÁO ĐƯƠNG ĐẠI

(Nhận dạng )

Bùi Công Thuấn

***

            Thế nào là một “nhà văn Công giáo”?

Nhà văn Công giáo là người Công giáo, viết tác phẩm văn học Công giáo.

Như vậy, tác giả là người Công giáo viết tác phẩm thế tục thì không phải là “nhà văn Công giáo”. Ngược lại, nhà văn thế tục viết tác phẩm có yếu tố Kitô giáo cũng không phải là “nhà văn Công giáo”. Thí dụ, Chu Văn viết Bão Biển (1969), Nguyễn Huy Thiệp viết Con gái Thuỷ Thần (1993), Nguyễn Việt Hà viết Cơ hội của Chúa (1999) là những tác phẩm có yếu tố Ki tô giáo nhưng những tác giả và tác phẩm ấy không phải là văn học Công giáo…

            Thế nào là tác “phẩm văn học Công giáo”?

Với một tác phẩm văn xuôi, nội dung phải phản ánh đời sống cộng đồng giáo dân (giống như văn học Cách mạng phải phản ánh cuộc đấu tranh cách mạng của quần chúng). Chủ đề của tác phẩm phải đặt ra những vấn đề về sống đạo, về đức tin, về lương tâm Công giáo. Truyện được viết dưới ánh sáng tư tưởng Mỹ học Kitô giáo và chủ nghĩa Nhân văn của Tin Mừng. Nhà văn viết tác phẩm là khám phá Cái Đẹp dưới góc nhìn tôn giáo, hướng đến mục đích Phúc âm hóa môi trường. Tuyệt đối không được sai về tín lý và luân lý Kitô giáo.

            Trong bài viết này, tôi chú ý đến tác phẩm văn chương Công giáo, tức là những sáng tạo nghệ thuật (Fiction) xây dựng những hình tượng mới, thể hiện tư tưởng-thẩm mỹ Kitô giáo, và đa dạng về thi pháp. Tôi chưa có dịp quan tâm đến tác phẩm văn xuôi công cụ như báo chí, văn bản hành chính (Thư chung), văn nghị luận (những bài thuyết giảng), Kinh văn, Tự điển, Biên khảo[[1]].

            Do không xác lập những vấn đề như thế, nhiều nhà nghiên cứu văn học Công giáo đã rất lúng túng khi giới thiệu những người cầm bút Công giáo viết tác phẩm thế tục vào danh sách “nhà văn Công giáo”.

Phần I: NGƯỢC DÒNG

            Xin có một cái nhìn lướt qua văn xuôi Công giáo từ đầu đến 1980.

            Văn xuôi Công giáo khởi đi từ Majorica

1. Girolamo Majorica (1591 – 1656), thuộc dòng Tên, người Napoli, nước Ý, truyền giáo tại Việt Nam từ năm 1623 đến khi qua đời năm 1656. Majorica được coi là một trong những người đầu tiên viết văn xuôi bằng chữ Nôm. Tiêu biểu tác phẩm Các Thánh truyện (1646) (xem Lịch sử văn học Công giáo Việt Nam của Võ Long Tê, chương V, Majorica).

            2. Truyện Ông Gioang Ngô Kim Thạch (1916) của Charles Ngọc Ninh, đăng trên tờ Nam Kỳ Địa Phận từ số 403 (1916) đến số 415 (1917) được coi là truyện văn xuôi đầu tiên.  Nguyễn Văn Trung nhận xét: Truyện Gioang Ngô Kim Thạch là một truyện Tàu đượm tinh thần kitô giáo…Ngoài ra, truyện còn có nhiều nét giống hệt với hai tác phẩm nổi danh của văn học Việt Nam: Kim Vân Kiều và Lục Vân Tiên, giống cả về nội dung đến hình thức, chỉ khác ở chỗ đây là một áng văn xuôi (Nguyễn Văn Trung-Chương II-Lục Châu học).

            Nhà nghiên cứu Nt Đinh Thị Oanh cho biết: Từ truyện đầu tiên Truyện ông Gioang Ngô Kim Thạch đăng năm 1916 cho đến tiểu thuyết Tiếng oanh năm 1942, báo Nam Kỳ địa phận đã có gần 20 tác phẩm của hơn chục tác giả có những nét đặc sắc riêng các nhà văn Công giáo. “Cha giết con và Đôi bước lưu ly là hai tiểu thuyết mang màu sắc đạo Công giáo hơn cả trong tất cả các tiểu thuyết của Phêrô Nghĩa đăng trên Nam Kỳ địa phận [[2]].

            3. Nhà nghiên cứu Lê Đình Bảng cho biết số tác giả Công Giáo có tác phẩm truyện cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay: Lm Philipphê Lê Thiện Bá (1891-1981) in 4 cuốn, Lm Nguyễn Duy Tôn (1919-1976) in được 4 cuốn, Lm Vũ Duy Trác (1927-2003) 1 cuốn,  nữ sỹ Thuỵ An (5 cuốn), còn lại người in 1 cuốn hoặc 2 cuốn. Những tác giả tác phẩm ấy không gây được tiếng vang nào, ngoài truyện ngắn Truyện Thầy Lazarô Phiền (1887) của Nguyễn Trọng Quản ghi được dấu ấn đầu tiên về truyện chữ Quốc Ngữ.

            Trong Văn học Công giáo Việt Nam-Những chặng đường (Nxb Từ điển Bách Khoa, 2010, tr 317) ghi nhận cụ thể:

            Gillbert Trần Chánh Chiếu (1867-1919): Hương Cảng nhân vật (1909) gồm các bài ký kể lại cuộc du lịch của ông sang Hương Cảng và Quảng Đông; Tiền căn hậu báo (đăng trên Lục tỉnh Tân văn 1907) phóng dịch Le Conte de Monte Cristo cùa Alexandre Dumas. Hoàng Tố Oanh hàm oan (truyện, 1910).

            Jacque Lê Văn Đức (1887-1947): Hai chị em (1915).

            Phêrô Nghĩa (Lm Philipphê Lê Thiện Bá. 1891-1981). Tiểu thuyết Đôi bước lưu ly (1928), Mưa nắng mai chiều (1928), Cha giết con (1932), Nhị độ Mai (1933), Biết ai thượng lưu (1942) đăng trên Nam Kỳ Địa Phận (1928-1942).

            Cung Giũ Nguyên (1909-2008), người gốc Hoa. Tiểu thuyết: Một người vô dụng (1930), Nhân tình thế thái (tập truyện ngắn. 1931), Nợ văn chương (1934). Nửa gánh tang bồng.

            Lm Nguyễn Duy Tôn (1919-1976). Tiểu thuyết:  Hai trái cam máu (1953), Hai tâm hồn (1959), Bông huệ tươi (1959).

            Nguyễn Duy Diễn (1920-1965), bút hiệu Phương Khanh. Tiểu thuyết Những ngày đẫm máu (1953), tiểu thuyết đầu tiên về các thánh tử đạo Việt Nam.

            Lm Hán Chương Vũ Đình Trác (1927-2003): Lý tưởng đời anh (1959).

            Hà Châu: tiểu thuyết Xóm giáo.

            4. Nhà nghiên cứu Nguyễn Vy Khanh trong chuyên luận Đôi nét về văn học Công giáo Việt Nam nói đến các tác giả:[[3]]

            Bùi Hoàng Thư: tác giả nhiều tiểu-thuyết tình cảm, xã-hội vào thập niên 1960 ở miền Nam: Sống Cho Nhau, Ảo Ảnh, Nàng.

            Thảo Trường để các nhân vật của mình dấn thân sống đạo giữa đời, ngay cả trên bãi chiến trường, với những Thử Lửa (1962), Chạy Trốn (1965), Người Đàn Bà Mang Thai Trên Kinh Đồng Tháp (1966), Vuốt Mắt (1969), Th. Trâm (1969), Bên Trong (1969), Ngọn Đèn (1970), Mé Nước (1971), Cánh Đồng Đã Mất (1971), Bên Đường Rầy Xe Lửa (1971), Người Khách Lạ Trên Quê Hương (1972), Lá Xanh (1972), Cát (1974). Sau khi ông tái định cư ở Hoa-kỳ năm 1993, đã xuất-bản: Tiếng Thì Thầm Trong Bụi Tre Gai (1995), Đá Mục (1998), Tầm Xa Cũ Bắn Hiệu Quả (1999), Mây Trôi (2002), Miểng (2005).

            Quyên Di: tác-giả nhiều truyện và tiểu-thuyết giáo dục, hướng thượng từ trước 1975: Tuổi Trăng Tròn, Cánh Phượng Rơi, Tuổi Ươm Mơ, Chuông Đêm, … cho đến thời hải ngoại Hoa Hồng Nhà Kín (1995).

            Đường Phượng Bay: Tác giả tiểu-thuyết tình cảm xảy ra ở các họ đạo và các nhân vật chính thuộc giới tu hành: Mây Vẫn Nhớ Ngàn (1984), Yêu Màu Áo Đen 1989, Qua Cửa Thần Phù 1989, Tạm Biệt Rừng Hoa (1990). Mây Vẫn Nhớ Ngàn là một chuyện tình đẹp nhưng buồn thảm của Cha Thảo và cô Nga.

5.Nhà nghiên cứu trẻ Nt Bích Hạt giới thiệu nhà văn nữ Nguyễn Thị Thanh Huệ (bút danh Hoàng Lan). Bà có nhiều sáng tác như truyện ngắn “Phù sa trên tóc bạch kim”, “Tuổi trẻ mong manh”, “Thức tỉnh lòng mẹ”. Năm 2020, dù ở tuổi 83, bà vẫn miệt mài cho ra đời hai tập truyện ngắn dành cho thiếu nhi được độc giả tâm đắc: Người biến khỏi thành phố (Nxb Văn hóa- Văn nghệ) và Con cò mồ côi (Nxb Kim Đồng).

            Rất tiếc các nhà nghiên cứu Lê Đình Bảng, Nguyễn Vy Khanh và Nt Bích Hạt không giới thiệu rõ tác phẩm nào là tiểu thuyết Công giáo. Cho nên trong danh mục tác phẩm được giới thiệu, có nhiều tác phẩm không phải là “văn học Công giáo”.

Thí dụ:

Trường hợp Thụy An với tiểu thuyết Một linh hồn. Các nhà nghiên cứu đều đưa vào danh mục nhà văn Công giáo. Thực tế, Thụy An cuối đời quy y cửa Phật và Một linh hồn chỉ là tiểu thuyết tình cảm, kiểu truyện “Tình chỉ đẹp khi còn dang dở”, lấy bối cảnh Công giáo (thay cho bối cảnh chùa chiền đã có trong truyện của Khái Hưng).

Đường Phương Bay viết chuyện tình cảm của giới tu hành (một kiểu thời thượng câu khách).

Về tác phẩm của Thảo Trường, nhà phê bình Đặng Tiến cho biết: trong tác phẩm Thử Lửa (1962), Người Đàn Bà Mang Thai Trên Kinh Đồng Tháp (1966), Thảo Trường trực tiếp đề cập đến vấn đề chính trị… Khi sang Mỹ đoàn tụ với gia đình 1993, Thảo Trường tiếp tục viết. Anh cũng mô tả nhiều cảnh oái oăm của xã hội Việt Nam sau 1975, hay cảnh sống của người Việt định cư tại Hoa Kỳ[[4]].

Nhà văn nữ Nguyễn Thị Thanh Huệ chỉ viết tác phẩm thế tục để kiếm sống và nuôi con. Bà có 40 tiểu thuyết và tập truyện. Từ sau những tập truyện ngắn, bà bắt tay vào viết tiểu thuyết nhiều tập kiểu “ngôn tình” ăn khách với bút danh Hoàng Lan [[5]].

  Như vậy, có rất ít những tác phẩm văn chương Công giáo được viết dưới ánh sáng của tư tưởng Mỹ học Kitô giáo, viết với mục đích loan báo Tin Mừng và qua đó phản ánh đời sống, tâm tư tình cảm của người Công giáo trong trường kỳ lịch sử, lên tiếng nói lương tâm trách nhiệm của người Công giáo trước thời đại. Những tác phẩm như vậy nói như nhà nghiên cứu Lê Đình Bảng chỉ đếm trên đầu ngón tay.

***

Phần II: NHẬN DẠNG

            Từ sau 1975 đến nay tình hình văn xuôi Công giáo đã có những đường nét khác. Đất nước hòa bình, thống nhất và chuyển sang hội nhập toàn cầu hóa. Nhà nước đã có đường lối, chính sách tôn giáo dần dần đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước và yêu cầu hội nhập (Luật tôn giáo, tín ngưỡng; quan điểm về phát huy nguồn lực tôn giáo của Đại hội Đảng lần thứ XIII). Về văn học nghệ thuật, Nghị quyết 23-NQ/TW của Bộ Chính trị đề ra chủ trương và giải pháp: Tiếp tục đổi mới, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển mạnh mẽ, đa dạng của văn học, nghệ thuật về đề tài, nội dung, loại hình, phương pháp sáng tác, sự tìm tòi, thể nghiệm, nâng cao chất lượng toàn diện nền văn học, nghệ thuật nước nhà”. Hội Nhà văn Việt Nam có kế hoạch quảng bá tác phẩm văn chương Việt Nam ra nước ngoài; và đến nay (2021) còn được mời tham gia giải Nobel văn học.

Về phía Giáo hội, Hội đồng Giám mục Việt Nam có thư chung 1980 đề ra đường hướng “Sống phúc âm giữa lòng dân tộc”: “…chúng ta phải đồng hành với dân tộc mình, cùng chia sẻ một cộng đồng sinh mạng với dân tộc mình, vì quê hương này là nơi chúng ta được Thiên Chúa mời gọi để sống làm con của Người, đất nước này là lòng mẹ cưu mang chúng ta trong quá trình thực hiện ơn gọi làm con Thiên Chúa, dân tộc này là cộng đồng mà Chúa trao cho chúng ta để phục vụ với tính cách vừa là công dân vừa là thành phần Dân Chúa”.

Tất cả những vận động xã hội như thế tạo điều kiện cho văn học Công giáo phát triển và bước sang một thời đại mới rất khác với trước 1975: nhà văn Công giáo đã có thể tham gia Hội Nhà văn Việt Nam. Việc in ấn tác phẩm đã có Luật xuất bản. Trang mạng internet của các giáo phận có Mục vụ văn hóa giúp phổ biến tác phẩm rộng rãi. Trình độ người đọc đã  cao hơn hẳn so với trước kia. Các sinh hoạt văn học Công giáo được bình thường hóa (thành lập Câu lạc bộ thi ca; tổ chức tọa đàm, hội thảo; tổ chức các giải thưởng văn học Công giáo…).

Xin nhận dạng một vài khuôn mặt, một vài đường nét văn xuôi Công giáo hiện nay (chưa đầy đủ).

1. SONG NGUYỄN

Song Nguyễn là bút danh của Đức Giám mục Đaminh Nguyễn Chu Trinh, Giám mục giáo phận Xuân Lộc (2004-2016)[[6]].

Cho đến nay (2021), tác giả Song Nguyễn đã in 15 tác phẩm, trong đó có 9 truyện dài:

1. Một Đời Dâng Hiến, truyện dài. Nxb Tôn Giáo, 2009.

2. Đất Mới, truyện dài 3 tập. NxbTôn Giáo 2014.

    tái bản Nxb Hội Nhà văn, 2018.

3. Đồng Hành, truyện dài. Nxb Tôn Giáo, 2010.

4. Định Hướng, truyện dài. Nxb Tôn Giáo, 2011.

5. Chuyến Xe Về Trời, tập truyện ngắn 1. Nxb Tôn Giáo, 2011.

6. Còn Một Niềm Tin, tập truyện ngắn 2. Nxb Tôn Giáo, 2011.

7. Suối Nguồn, tập truyện ngắn 3. Nxb Tôn Giáo, 2011.

8. Người Cha Hiền, tập truyện ngắn 4. Nxb Tôn Giáo, 2012.

9. Những Người Mẹ, tập truyện ngắn 5. Nxb Tôn Giáo, 2012.

10. Chỉnh Hướng, truyện dài. Nxb Tôn Giáo, 2013.

11. Đồng Cỏ Xanh, truyện dài. Nxb Phương Đông, 2013.

12. Vì sao sáng, truyện dài. Nxb Tôn Giáo, 2015.

13. Tiếng Kêu, truyện dài. Nxb Hồng Đức, 2019.

14. Đường lên Núi Cúi. Truyện dài tư liệu. Nxb Hồng Đức, 2019.

15. Đường đến Núi Cúi, hành trình của đức tin. Hồi ký. Nxb Đồng Nai. 2021

Tác giả nói về mục đích sáng tác:

“Những tác phẩm trong tủ sách “Đời Dâng Hiến” được viết vào thời gian trước và sau 1975, là thời gian mà công việc mục vụ đang bị “đóng khung”. Được nghe người này, người khác kể về những mảnh đời trong nhiều hoàn cảnh, nhiều tình huống khác nhau, tác giả lượm lặt, rồi hư cấu thành tác phẩm, để nhân vật được sống đời sống thực, hoạt động độc lập.

Viết lại những mảnh đời, những số phận, những trải nghiệm, tác giả chỉ có ý rút ra cho đời mục vụ của mình những bài học từ cuộc sống. Hay nói khác đi, tác phẩm là những bài suy niệm sống qua các nhân vật. Và nếu có thể, chia sẻ với bạn bè tất cả những kinh nghiệm quý báu này. Mục đích chỉ đơn giản như vậy…” (Lời tác giả-mở đầu các tập truyện).

Tuy “Mục đích chỉ đơn giản”là “Viết lại những mảnh đời, những số phận, những trải nghiệm, tác giả chỉ có ý rút ra cho đời mục vụ của mình những bài học từ cuộc sống…”, nhưng tác phẩm văn học là một thế giới nghệ thuật, là một sinh mệnh biệt lập với tác giả và là một thực thể văn hóa xã hội, nó chứa đựng những ý nghĩa, những giá trị vượt ra ngoài mục đích sáng tác của tác giả.

Toàn bộ tác phẩm của Song Nguyễn hợp thành một bộ sử thi về đời sống của người Công giáo Việt Nam suốt từ trước những năm 1945 đến thời kỳ “đổi mới” (1986). Xin đơn cử một vài tác phẩm:

Một Đời Dâng Hiến kể lại cuộc đời của nữ tu Antony Nhẫn, một bông hồng trên đất khổ, một người duy nhất ở lại trại cùi Quy Hoà chăm sóc hàng trăm bệnh nhân trong những hoàn cảnh khó khăn sau 1975. Người nữ tu xinh đẹp yếu đuối ấy đã sống và chết cho một lý tưởng cao đẹp.

Đồng Hành kể chuyện ở một xứ đạo nhỏ giữa Đồng Tháp những năm 1960. Cha sở đã sống trong vùng sôi đậu giao tranh, sự sống chết có thể đến bất cứ lúc nào. Trong một đêm xứ đạo bị càn (không rõ bên nào), nhân vật Dì Năm đã bị giết vùi ở mé ruộng. Cha sở bị bắt đi. Song Nguyễn đã viết những trang suy nghiệm sâu sắc về cuộc sống, về đời tu, về ý nghiã cuộc sống về giá trị làm người. Dù đường đời hiểm nguy thế nào thì người tín thác nơi Chúa cũng tìm thấy lối đi bình an. Ngay cả khi tuyệt vọng nhất thì những bài ca thiên thần cũng nâng con người lên khỏi bùn lầy, máu lửa, và sự chết.

Đất Mới (3 tập) kể lại cuộc đời và thái độ chọn lựa lý tưởng của Lm Phương Toàn những ngày đầu miền Nam mới giải phóng 1975. Nếu “đời là bể khổ” thì Lm Nguyễn Phương Toàn đã nếm trải đủ mùi tục lụy. Sinh ra làm người mà không được sống đúng với giá trị thực của mình, đó là một điều bi đát. Từng là một giáo sư dạy Đại Chủng viện, ngài dấn thân đi “kinh tế mới” cùng với giáo dân. Ngài từ chối đi định cư ở nước ngoài để sống cuộc sống lao động vất vả lam lũ với giáo dân, xây dựng xứ đạo ở vùng kinh tế mới.

Định Hướng là một truyện dài viết về một xứ đạo ngay trước và sau ngày 30.4. 1975 và những ngày tháng sau đó. Chiến tranh ác liệt tàn phá tất cả. Nhà thờ không còn, không có cha sở. Đoàn chiên tan tác vì bom đạn và sợ hãi, sinh hoạt tôn giáo tan rã. Kinh tế cực kỳ khó khăn. Trong hoàn cảnh ấy, một thầy tu dở dang đã sống ơn gọi giữa “đoàn chiên”, đi con đường Thánh giá và hoa hồng. Càng đi, càng dấn thân vào bi kịch. Khi câu chuyện kết thúc, con đường tu trì của Thầy vẫn chưa có “ánh sáng cuối đường hầm”.

Chỉnh Hướng kể truyện Linh mục trẻ tuổi Phương Trung mới ra trường, sáng ngời lý tưởng, đầy ắp lòng nhiệt thành, khao khát dấn thân vì đoàn chiên và muốn làm được nhiều việc cho Chúa. Ngài không sợ khó, không sợ khổ, không sợ phải hy sinh, chỉ một lòng tin có Chúa dìu dắt quan phòng. Ơn Chúa, sau những vấp váp, ngài nhận thấy rằng, lòng nhiệt thành thôi chưa đủ, mà cần có sự khôn ngoan trong thánh ý của Chúa. Ngòi bút của Song Nguyễn miêu tả trực diện những biến cố xảy ra trong những ngày tháng trước và sau 30.04.1975, và những ngày tháng Linh mục Phương Trung bị tạm giam.

Đồng Cỏ Xanh miêu tả những nạn nhân bị kẹt giữa hai lằn đạn của cuộc giao tranh. Trước những tang thương và mất mát quá sức chịu đựng của con dân, cha Phương Tín dẫn đoàn chiên đi giữa những nghịch cảnh của lịch sử, một bên là Cách mạng, bên kia là chính quyền Cộng Hòa  để tìm bến bình an. Tác phẩm thấp thoáng những năm tháng đầy bom đạn Mỹ giai đoạn 1955-1975. Song Nguyễn tập chú vào những nạn nhân của chiến tranh, đặc biệt là giáo dân của ngài. Bởi đó là trách nhiệm tinh thần, trách nhiệm dẫn dắt đòan chiên của người linh muc

Vì Sao Sáng là câu truyện viết về giáo dục trước 1975. Linh mục Trung Tín phụ trách việc dạy học ở một ngôi trường. Trong một lần nghỉ hè trên đường đi Đà Lạt, ngài bị Quân giải phóng bắt và đưa vào căn cứ. Ở đây ngài nhiều lần đối thoại với các cán bộ Cách mạng thẩm vấn ngài. Sau cùng ngài được trở về. Những đoạn đối thoại giữa Linh mục Trung Tín với cán bộ Cách mạng, với người Phật tử về sự chọn lựa lý tưởng là những đọan rất thú vị. Thú vị ở sự trung thực của ngòi bút khi phải đối mặt với những khác biệt tư tưởng, nhưng không tạo ra đụng chạm mâu thuẫn; thú vị ở cái nhìn đa diện, giàu vẻ đẹp nhân văn nhưng không kém phần quyết liệt, bản lĩnh; thú vị ở tầm nhìn ra những dấu chỉ của thời đại và thái độ cần có của người trí thức Công Giáo trong những biến cố của lịch sử.

Tiếng Kêu là thông điệp bảo vệ sự sống, bảo vệ quyền con người, đồng thời là tiếng nói trách nhiệm của lương tâm Công Giáo trước những thách đố đức tin của thời đại. Người đọc sẽ theo chân tác giả trong một hành trình lịch sử đầy máu và nước mắt của nạn diệt chủng do Khmer Đỏ gây ra những năm 1975-1978, sẽ lần theo từng bước chân gian khổ, hy sinh, bệnh tật, bách hại, chết chóc của những vị thừa sai đi gieo hạt giống Tin Mừng đầu tiên ở Tây Nguyên, và từ đó khám phá ý nghĩa đức tin, tiếp nhận thông điệp về sự sống, về trách nhiệm bảo vệ quyền con người đối với những thân phận bị chà đạp nhân phẩm. Điều quan trọng là người Công Giáo phải làm gì để xây dựng nền văn minh tình thương và văn hóa sự sống.

Hai tập truyện ngắn Người cha hiềnNhững người mẹ là những gương sống đạo trong hoàn cảnh gian nan:

 Một người cha bán ve chai, bị trái nổ làm câm điếc. Vợ bỏ đi. Con vì mặc cảm bố khuyết tật cũng bỏ nhà đi. Trong đau khổ cùng cực ấy, chính người cha đã truyền hết máu tim mình sang tim con để đem đứa con trở về với cội nguồn sự sống là tình yêu thương của cha.

          Một người cha hơn nửa đời làm nghề tài xế, chỉ mong được chút “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”, thế nhưng “vinh” đâu chưa thấy. Anh có hai đứa con,  đứa con gái thương yêu lại bị khuyết tật câm điếc bẩm sinh. Người cha ấy đã hết lòng chạy chữa và cầu nguyện cho  con. Anh tin tưởng rằng Chúa không bao giờ bỏ mặc anh.

            Người cha khuyết tật trong truyện Chúa Yêu Cánh Hoa Đơn bị tại nạn xe, vợ chết, thân mình thành tàn phế, nhưng ông vẫn cậy trông vào ơn Chúa và tích cực hoạt động trong giáo xứ. Những đứa con trưởng thành lên trong sự cưu mang của mọi người trong giáo xứ. Dù nhà neo đơn và khó khăn, người con vẫn xin đi tu. Con đã nhận ra ơn gọi trong những lời cha dạy. Hãy tin vào sự quan phòng của Chúa, biết sống phó thác và luôn tìm ý Chúa.

            Những người mẹNgười Mẹ Lao Công, Người Mẹ Bán Vé Số, Người mẹ bại liệt, Người Mẹ Công Nhân, Người mẹ nông dân, Người Mẹ Mù, Người Mẹ Nuôi…Những truyện trong tập Những người mẹ thể hiện tư tưởng Nhân văn Công giáo đặc sắc. Người Công giáo không chỉ nhận lấy cái khổ của mình như nhận lấy Thánh Giá, mà còn tự nhận lấy cái khổ của tha nhân làm Thánh Giá của mình, để nỗi thống khổ của tha nhân được vơi đi phần nào. Và làm như thế cũng chính là làm cho Chúa (Mt 25, 31-40).

Các tác phẩm của của Song Nguyễn có giá trị về nhiều mặt, song đặc biệt thể hiện tư tưởng Mỹ học Kitô giáo và tư tưởng Nhân văn của Tin mừng trong việc xây dựng nhân vật, trong việc đặt ra và giải quyết những vấn đề của thời đại, trong việc thể hiện vẻ đẹp đời sống Kitô giáo giữa lòng dân tộc. Song Nguyễn không ngại đối mặt trực diện với những vấn đề của thời đại thách thức lương tâm Công giáo. Tác phẩm của Song Nguyễn có thể gợi ra cho người viết trẻ Công giáo nhiều vấn đề lý luận: Nội dung tác phẩm viết gì? Nhân vật chính của văn học Công giáo là ai? Thái độ diễn ngôn trong tác phẩm của một nhà văn Công giáo là thái độ thế nào, cả việc chọn lựa bút pháp, cách thể hiện và mục đích sáng tác.

Trong dòng chảy văn xuôi Công giáo từ trước tới nay, chưa có tác giả nào mà tác phẩm thực hiện một sứ mạng cao cả như vậy: vừa phản ánh thực tại đời sống của người theo Chúa trong trường kỳ lịch sử, vừa khắc họa chân dung Đức Giêsu qua nhiều số phận nhân vật, vừa thực hiện sứ mệnh loan báo Tin Mừng: “tác phẩm là những bài suy niệm sống qua các nhân vật. Và nếu có thể, chia sẻ với bạn bè tất cả những kinh nghiệm quý báu này”.

2. LM NGUYỄN TRUNG TÂY (hải ngoại)

            Lm Nguyễn Trung Tây SVD sinh tại Saigòn, trưởng thành tại Sàigòn và San Jose, CA; là Linh mục dòng truyền giáo Ngôi Lời thuộc tỉnh dòng Chicago; từng làm Giáo sư Kinh Thánh tại Đại học Thần học Yarra Theological Union, Melbourne, Úc Châu. Ngài một thời làm thuyền nhân tại đảo Pulau Bidong, Mã Lai; một thời làm việc tại sa mạc Central Australia; và là người yêu mến triết học. Ngài từng đoạt giải Chung kết viết về Nước Mỹ 2010. Việt Báo giới thiệu: “Những tác phẩm của ngài dù được viết với giọng văn đầy dí dỏm, khôi hài vẫn để lại trong lòng người đọc những suy tư trăn trở về văn hóa, gia đình, xã hội, đất nước và ý nghĩa của kiếp người.”[[7]]

Tác phẩm của Nguyễn Trung Tây xuất hiện trên Nguyệt san Dân Chúa Úc Châu, Nguyệt san Trái Tim Đức Mẹ Dòng Đồng Công, Nguyệt san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Dòng Chúa Cứu Thế, VietCatholic, Mạng Lưới Dũng Lạc, Radio Giờ Của Mẹ, Việt Báo, Làng Văn, Hợp Lưu, Văn, Da Màu, Văn Học, và trang lưới Văn Đức của Giáo xứ Lộc Hưng hải ngoại.

Tác phẩm chính:

Ốc mượn hồn (tập truyện ngắn),

Quán rượu nửa đêm (tập truyện ngắn),

Quán nước đầu làng:Niềm tin Việt Nam (Nxb Tôn giáo. 2021): tác giả giới thiệu: “Tác giả đã kể chuyện Đức Giêsu qua dạng truyện ngắn mang tựa đề Niềm tin Việt Nam. Tác giả đặt tựa sách tên “Quán nước đầu làng: Niềm tin Việt Nam”. Bước vô quán, chủ quán mời người Việt Nam không phân biệt tôn giáo uống một ly trà xanh, một cốc nước vối, một ly café đen nóng trong khi nghe chủ quán kể chuyện Đức Giêsu qua những nhân vật Việt Nam đang sống niềm tin ở cả hai nơi hải ngoại và quốc nội…”

Nhiều truyện ngắn của Nguyễn Trung Tây có chất tự truyện. Tác giả ghi lại gốc tích quê hương, những tháng ngày trước và sau ngày 30/4/ 1975, những trải nghiệm thuyền nhân trên biển, cuộc sống ở Mỹ. Năm 1991 đi tu và năm 2002 bước lên bàn thánh. Sau đó sống đời phục vụ, từng ở Úc châu (2006-2016), rồi đến đến Philippines, vàTôi giờ tu sĩ bình bát, lang thang đó đây sống giữa và sống với những đời sống bên lề xã hội.

Nguyễn Trung Tây cũng là nhà văn của những vấn đề di dân: thân phận lưu vong, sống với những bi kịch khác biệt văn hóa. Các nhân vật Linh mục trong truyện của Nguyễn Trung Tây thể hiện vẻ đẹp của tư tưởng Thần học và Mỹ học Kitô giáo. Truyện của Nguyễn Trung Tây là “kiểu truyện tư tưởng”, diễn ngôn về Tin Mừng được trình bày như không trình bày. Chất dân tộc và hiện đại là đặc điểm của văn chương Nguyễn Trung Tây. Tác giả kết hợp nhiều bút pháp trên nền của chủ nghĩa hiện thực. 

Có thể khẳng định Lm Nguyễn Trung Tây là một “nhà văn Công giáo” đặc sắc đương đại, có nhiều đóng góp cho văn học Công giáo hôm nay. Truyện Nguyễn Trung Tây phản ánh một mảng hiện thực rộng của người Việt hải ngoại, đặt được những vấn đề xã hội, vấn đề văn hóa, tư tưởng liên quan mật thiết với đời sống người Việt. Ngòi bút Nguyễn Trung Tây có đóng góp  đặc sắc về bút pháp, về sự thể hiện tư tưởng Thần học và Mỹ học Kitô giáo trong văn chương. Điều dễ nhận thấy ở trang văn Nguyễn Trung Tây là tính truyền thống và chất hiện đại, tính phóng khoáng về tư tưởng (tính dân chủ) song vẫn hết sức giữ gìn những giá trị dân tộc.

Dù viết cho công chúng, song có những truyện của Nguyễn Trung Tây không dễ đọc: Cây thánh giá gỗ mùa Giáng sinh, Hành trình Văn Lang, Thanh hỏa trà, Quán rượu nửa đêm, Thị trấn Chula Vista, Chợ trời Dendenon, Giầy bạc con công, Thần cây đa…

(Mời đọc bài viết về truyện ngắn Nguyễn Trung Tây [[8]]

3. LM ĐAMINH NGUYỄN ĐỨC THÔNG CSsR

Lm Đa Minh Nguyễn Đức Thông CSsR. Sinh năm 1957. Chịu chức Linh mục năm 1993; Tiến sĩ ngành Giáo dục Tôn giáo tại Đại học De la Salle, Manile. Hiện đang là phó Giám tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam. Giảng dạy tại: Đại Chủng viện Saigon, Học viện Công giáo. Tác phẩm văn học chính:

Nắng chiều tàn tạ. 7 truyện ngắn. Nxb Đồng Nai. 2003

Rừng cao su thay lá. 5 truyện ngắn. Nxb Đồng Nai. 2005

Hoa tươi trong vùng cát. 3 truyện ngắn. Nxb Đồng Nai. 2006

Sỏi đá nở hoa. 3 truyện ngắn. Nxb Đồng Nai 2011

Trăng rằm trên phố núi. Tiểu thuyết. Nxb Hồng Đức. 2018

Tác phẩm của Lm Đaminh Nguyễn Đức Thông CSsR là tiếng nói mạnh mẽ của lương tâm Công giáo về vấn đề bảo vệ sự sống, bảo vệ nhân phẩm, vấn đề giáo dục, sự xuống cấp của luân lý, đạo đức xã hội và đặc biệt là sự mờ nhạt của đức tin trước những thách thức của thời đại.

4. LM CAO GIA AN SJ

               Lm Cao Gia An sinh năm 1981 tại Hiệp Đức, Bình Thuận. Thụ phong linh mục năm 2014, thuộc dòng Tên. Pontificia Università Gregoriana (Đại học Giáo hoàng Gregorian), Đang trình luận án tiến sĩ về Chú Giải Kinh Thánh. 

 Đã xuất bản: 

3 tập thơ: Về Núi Thánh, Mùa Cứu Rỗi, Tình Thơ Trên Phận Người.

            Các tập truyện ngắn: Hoa Phượng Về Trời; Tâm sự một loài hoa trên tường đá (Nxb Tôn giáo 2018-gồm 22 truyện ngắn); Bên ngoài cổng nhà thờ (tập truyện ngắn. Nxb Hồng Đức 2018)[[9]].

      Bên ngoài cổng nhà thờcòn rất nhiều người nghèo thiếu cả cơm ăn áo mặc. Nghèo hơn nữa là những người nghèo chưa bao giờ được nuôi dưỡng bởi những của ăn tinh thần và đời sống tâm linh. Họ vô phương kháng cự trước vô số cám dỗ và nguy cơ của đời sống hiện đại”.

Tác giả dẫn người đọc đến thăm những cảnh đời mà lối sống đạo truyền thống của người Công giáo đã đẩy họ ra ngoài nhà thờ. Đó là những trường hợp gọi là hôn nhân “rối”, những cô gái “chửa hoang”(Bên ngoài nhà thờ, Cha xứ dở); những “cánh hoa rơi” giữa phố thị (Tầm xuân giữa phố); chia sẻ những bi thảm của những số phận bị công nghiệp hóa tước đi môi trường sống (Miền cỏ xanh dưới lòng sông), hoặc làm tha hóa những điều đạo đức tốt đẹp, làm tan vỡ những cuộc tình hồn hậu,  làm ly tán những gia đình vốn nề nếp hạnh phúc (Tiềng chuông nhà thờ; Hương ổi ngày xưa; Xóm không đêm; Một cuộc đời để sống)…

Bên ngoài cổng nhà thờ là cuộc sống phức tạp. Người Linh mục trẻ cảm thấy bất lực. ”Càng va chạm nhiều với thực tế, anh càng gặp nhiều cảnh đời đau lòng. Những cảnh đời đau lòng đặt ra cho anh nhiều câu hỏi vô phương trả lời, nếu chỉ dựa trên những gì anh đã được học, dựa trên những phương tiện anh đã được trang bị, hay dựa trên những luật lệ mà trước đây anh đã từng trân giữ và xác tín”.

Và đây là một câu hỏi không có lời đáp về một trường hợp chửa hoang mà ba đời chịu khổ: “tội nhân đã ôm tủi hổ xuống mồ, bố mẹ của tội nhân thì cho đến chết cũng đã không dám ngước mặt nhìn đời, con của tội nhân thì không có cơ hội để sống một cuộc sống bình thường như bao nhiêu người khác. Đáng không? Do đâu mà ra cái bể trầm luân như thế? Còn có cơ hội nào để tìm và cứu những gì hư mất không?”.

            Trong bài giảng về đoạn Tin Mừng “Đứa con hoang đàng” (Lc 15, 1-32), người Linh mục trẻ ấy (Cha Tâm) đã đặt câu hỏi này vào lương tâm người Công giáo: “Người ra đi, bị gọi là kẻ tội lỗi, kết cục bước vào ở trong nhà của Cha. Còn người ngày ngày ở lại trong nhà Cha, tự xem mình là kẻ công chính, cuối cùng lại tự đặt mình ở ngoài cổng. Chúng ta gặp mình trong nhân vật nào? Người con thứ hay người con cả? Hay cả hai? Đâu là chỗ của chúng ta, trong nhà hay ngoài cổng?”(truyện Bên ngoài cổng nhà thờ.)

5.NHÀ VĂN NGUYỄN THỊ KHÁNH LIÊN

Nhà văn Nguyễn Thị Khánh Liên sinh năm 1982. Giáo xứ Gò Đền, Nha Trang. Là Hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam.

Tác phẩm đã in: Mùa ảo ảnh (truyện dài. 2014); Charao mùa trăng (Truyện dài, 2014), Cô bé gọt bút chì và chú vẹt Cúc-cu (truyện dài thiếu nhi, 2014), Giải cứu ông già Noel (tập truyện ngắn thiếu nhi, 2017). Khánh Liên cũng đoạt nhiều giải thưởng văn học: Giải nhất cuộc thi truyện ngắn Kẹo bạc hà cho tình đầu (báo Áo Trắng 2013), Giải khuyến khích Văn học tuổi 20 lần thứ 5 (2014), Giải Viết văn đường trường (2015, 2016, 2018), Giải VHNT Đất Mới (2016, 2020), Giải nhất cuộc thi viết truyện ngắn và giải nhất cuộc thi viết truyện dài ”50 năm giáo phận Ban Mê Thuột”(2018); Giải ba cuộc thi viết tản văn ”Thương nhớ miền trung” (báo Thanh Niên 2020)…Nguyễn Thị Khánh Liên là một cây bút đầy nội lực, tài năng đã được khẳng định qua nhiều giải thưởng.

Văn chương Khánh Liên thể hiện một tấm lòng yêu người sâu nặng. Nhà văn dám đối mặt với những vấn đề gai góc của đời sống đức tin, ngòi bút lại có thể miêu tả trực diện những bi kịch trong đời thực, và có thể kết thúc những bi kịch bằng những trang văn hết sức cảm động, đầy ắp sự bao dung và lòng tin vào Chúa, vào lẽ thiện của con người.

Khánh Liên có tài khai thác tình huống truyện, có khả năng nhập vai vào nhân vật để khám phá sâu sắc hiện sinh và nghệ thuật giải quyết bi kịch. Khánh Liên mở ra con đường cho những bế tắc bi kịch bằng lòng tin yêu và phó thác vào Chúa.

(Mời đọc bài viết riêng về tập truyện ngắn Sông chảy về đâu [[10]]

6.NHÀ VĂN NGUYỄN VĂN HỌC

Nhà văn Nguyễn Văn Học thế hệ 8X, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Anh quê ở huyện Phú Xuyên (Hà Tây cũ), Hà Nội, sinh trưởng trong một gia đình rất nghèo. Anh tốt nghiệp Khoa Viết văn-Báo chí, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội (tiền thân là Trường Viết văn Nguyễn Du).

Hơn 20 năm cầm bút, Nguyễn Văn Học đã in trên 20 tác phẩm ở nhiều thể loại khác nhau: Những cô gái bất hạnh (2007); Gái điếm (2008); Đường dài của hạnh phúc (2008); Rơi xuống vực sâu (2009); Bão người (2009); Cao bay xa chạy (2010); Hỗn danh (2011); Hoa giang hồ (2011); Khi vết thương nằm xuống (2013); Vết thương hoa hồng (2016); Mình ơi, Anh cưới dòng sông nhé? (2018); Chạm tay vào cánh chim trời (2020); Linh điểu (2020); Tiệc hoa (2020), Miền Thánh Đợi (2021)…

            Một số truyện trong tuyển tập Miền thánh đợi có yếu tố Kitô giáo. Đó là các truyện Tình người; Cô gái hát thánh ca, Miền thánh đợi, Ngã lên cỏ thơm.

Nhìn chung, truyện ngắn có yếu tố Kitô giáo của Nguyễn Văn Học không được viết để loan báo Tin Mừng hay để khẳng định Đức Tin. Nhà văn ghi nhận những vấn đề xã hội của tôn giáo và qua đó đặt dấu hỏi về vai trò của tôn giáo trong cuộc sống cộng đồng. Cảm hứng chính của ngòi bút Nguyễn Văn Học là phê phán những kẻ xấu trong giáo dân, “Họ đi nhà thờ đọc kinh đó, ăn “mình thánh Chúa” đó, rồi chính họ đã làm điều ác. Bàn tay họ vấy máu và đầu óc bị quỷ cám dỗ, làm điều chúng sai khiến” (Miền thánh đợi); chính họ cản trở những người muốn theo Chúa.

Những vấn đề nhà văn Nguyễn Văn Học đặt ra làm nặng lòng những người yêu mến Chúa, bởi Chúa dạy “ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”(Mt 22, 34-40), nhưng nhiều người Công giáo đã không sống đúng với lời dạy ấy.

           (Mời đọc:Nhà văn Nguyễn Văn Học & Những truyện ngắn có yếu tố Kitô giáo[[11]])

7.NHÀ VĂN LÊ QUANG TRẠNG

Lê Quang Trạng sinh năm 1996 ở Mỹ Luông, TP. Long Xuyên, An Giang. Anh là Hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam. Lê Quang Trạng đã đoạt rất nhiều giải thưởng văn học: Giải Tư cuộc vận động sáng tác Văn học nghệ thuật của Bộ Quốc phòng năm 2017, Giải Tư cuộc thi truyện ngắn tạp chí Văn nghệ Quân đội 2018 – 2019, Giải Tư cuộc thi truyện ngắn báo Văn nghệ 2015 – 2017, Giải thưởng Tác giả trẻ của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, năm 2016, Giải A – Giải thưởng Văn học nghệ thuật Huỳnh Văn Nghệ lần thứ VI, 2016-2020

Tác phẩm đã xuất bản: Dòng sông không trôi (Tập truyện ngắn. 2016), Áp tai vào đất (tập thơ. 2017), Thủ lĩnh băng vịt đồng (truyện dài), vệt sáng của bụi (tập truyện ngắn), Người chở chữ qua sông (tập bút ký), Những hạt bùn vạn dặm (tản văn).

Tuy không phải là Kitô hữu, nhưng từ nhỏ anh đã sống ở xứ đạo Cù Lao Giêng, hay đến nhà thờ, khi lớn lên anh đã có dịp tìm hiểu về đạo.

Anh có khuynh hướng viết “kiểu truyện tư tưởng”. Lê Quang Trạng có khả năng hư cấu, sáng tạo nghệ thuật độc đáo, phong phú.

Xin đọc các truyện: Tình yêu của Chúa (Giải I. VHNT Đất Mới 2015), Những tiếng chuông trầm (Giải I. VHNT Đất Mới 2017), Chúa luôn bên mọi người (Giải KK. VHNT Đất Mới 2016), Thư gửi người họa sĩ tương lai (Giải. VHNT Đất Mới 2018).

8. TERESA NGUYỄN THỊ PHƯƠNG THẢO

            Teresa Nguyễn Thị Phương Thảo đạt giải nhất VHNT Đất Mới 2017 với tiểu thuyết Ôi tội hồng phúc..

            Tác giả nói về hoàn cảnh sáng tác Ôi tội Hồng Phúc như sau:

            “Thưa quý độc giả, tình cờ ghé vào trang nhà của Trung Tâm Mục Vụ Dòng Chúa Cứu Thế vào năm 2012, con vô cùng ấn tượng với chương trình Bảo vệ Sự sống của các linh mục. Từ đấy, con bắt đầu nuôi ý tưởng sáng tác, dựa trên một câu chuyện con được nghe kể nhưng chỉ bắt đầu nghiêm túc đặt bút viết vào giữa năm 2017. Như vậy, tiểu thuyết “Ôi tội hồng phúc” đã được phóng tác từ truyện thật nhưng tất nhiên, cũng được hư cấu khá nhiều để tăng phần hấp dẫn và lôi cuốn cho độc giả.

Vốn là Tân tòng, gốc gia đình Phật giáo, con chủ ý nhắm đến các độc giả không Công giáo nên nội dung tôn giáo được đề cập khá nhẹ nhàng hầu tránh gây cảm giác nhàm chám cho các độc giả chưa quen với văn hóa và thuật ngữ Kytô Giáo. Chủ đề xuyên suốt của tác phẩm là bảo vệ sự sống nhưng cũng bao gồm quan điểm Kytô Giáo về giá trị của tình dục – tình yêu, hôn nhân và đặc biệt là vấn đề sự dữ và lời giải đáp trong đức tin. Và đó cũng là lý do vì sao tác phẩm được mang tên: “Ôi tội hồng phúc!”, trích từ bài Exsultet, trong đêm canh thức Vọng Phục sinh.

Đồng thời, tác phẩm cũng kể đến mặc khải tự nhiên của Thiên Chúa nơi các tôn giáo, cụ thể là Phật giáo, một tôn giáo có số lượng tín đồ đông đảo nhất và ảnh hưởng sâu rộng nhất tại Việt Nam. Khi nhắc về Phật giáo, con muốn ám chỉ rằng Thiên Chúa đến với tất cả mọi người qua lương tâm ngay lành và khao khát tìm kiếm Chân Thiện Mỹ, cho dẫu trong ý thức, họ không biết Ngài là ai hay cầu khẩn Ngài dưới một danh xưng khác.

Truyện có kết thúc theo hướng mở với những cánh cửa tương lai khác nhau. Con xin dành cho quý độc giả quyền tự do định đoạt một cái kết có hậu mỹ mãn theo ý riêng của mình.

Xin thú thật là con phải bỏ không ít thời gian nghiền ngẫm các bài viết về Y học và Phật giáo. Con cũng bị phê bình về một chi tiết bất hợp lý liên quan đến tình trạng thiếu an toàn khó xảy ra ở một nước tân tiến như Canada, khiến cho chiếc máy bán hàng tự động bị đổ ụp bất ngờ, gây tai nạn chết người. Con xin đính chính là theo thống kê ở Bắc Mỹ, số người bị thương tích hay tử vong do máy bán hàng tự động, tuy vô cùng họa hiếm, nhưng vẫn nhiều hơn so với số tại nạn bởi các cuộc tấn công từ cá mập.

Tóm lại, tác phẩm “Ôi tội hồng phúc” không thể tránh khỏi nhiều thiếu sót do không được viết bởi một nhà văn chuyên nghiệp. Tuy nhiên, con vẫn hy vọng có thể giới thiệu với độc giả không Công giáo các giá trị nền tảng và thông điệp yêu thương của Kitô Giáo.

Cuối cùng, con xin chân thành cảm tạ Chúa đã hướng dẫn con hoàn tất tác phẩm này. Con luôn cầu nguyện xin Ngài giúp sức trước khi khởi đầu một chương mới”[[12]].

9. VINH KIU

Vinh Kiu là bút danh của Lê Ngọc Thành Vinh (Hà Nội), làm việc tại Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Anh đoạt Giải Nhất VHNT Đất Mới 2020 với truyện dài Đóa hồng thứ 40. Tác phẩm khẳng định tài năng của một nhà văn trẻ. Anh còn là tác giả truyện vừa Maria ngoại truyện và là chủ biên tập truyện ngắn Người đọc sách thánh (nhiều tác giả-Nxb Dân Trí 2021).

Đóa hồng thứ 40 có dáng dấp một truyện ký, ghi chép lại khá chân thực ba mùa xuân Thanh Hiền sống và làm việc trên đất Nhật. Thanh Hiền 25 tuổi, là Sinh viên trường Đại học sư phạm nghệ thuật Trung ương, chuyên ngành âm nhạc và dương cầm. Cô xuất khẩu lao động sang Nhật, làm việc trong công ty đóng hộp cơm. 5 chương đầu kể chuyện chỗ ở, việc thực tập và làm việc hết sức vất vả. Ở công ty, Hiền bị Thu Cúc dụ dỗ đóng phim vợ chồng (phim JAV), nhưng cô tránh được.

Những chương sau là hồi tưởng của Hiền về mối tình đầu với Chiến Thắng, cuộc tình thứ  2 với Apolong, cuộc tình thứ ba với Đình Trọng. Cả ba người đều bỏ cô để theo Chúa sống đời dâng hiến. Hiền cũng hồi tưởng chuyện tình của bố mẹ (Bà Hà-ông Minh), chuyện tình của người chị là Hoài Hương và việc Hương đi xuất khẩu lao động ở Angola, về thảm cảnh nợ nần, tai họa liên tiếp của gia đình.

Để kiếm thêm tiền gửi về nhà trả nợ vay nóng,  Hiền đã nhận đàn cho ca đoàn ở  nhà thờ Tin Lành, dạy nhạc cho học sinh lớp ba ở trường Tiểu học trong vùng với mức lương gấp đôi làm ở công ty cơm hộp. Cô có ước mơ sang Anh để kiếm nhiều tiền hơn. Hiền được Huy môi giới sang Anh “trồng cỏ”. Do bận công việc, Hiền phải lùi thời gian đi chuyến sau. May cho cô không đi chuyến ấy. Huyền My, một người bạn của Hiền đã trở thành nạn nhân của chiếc xe container chở 39 xác chết khi vào nước Anh. Người bạn ấy là đóa hồng thứ 39, và Hiền là đóa hồng thứ 40.

            Sau cùng, gia đình Hiền được đền bù tiền đất do quy hoạch, Hoài Hương đã trả được nợ và mở thêm một tiệm bán và sửa chữa ngư cụ cho bố (ông Minh). Hương được chị Mai là một đồng nghiệp giúp cho đi dạy lại. Thằng Cò (con của Hương) được đi học. Cuộc đời của cả gia đình Thanh Hiền như đã sang trang

Hiền suy gẫm: “Chẳng phải Chúa đã cho cô một cơ hội được sống sót, đóa hồng thứ 40 này phải sống sao cho xứng đáng, sống sao cho có ích, sống cho cả 39 đóa hồng kia, đặc biệt là cho đóa Huyền My

                Truyện tập trung miêu tả tình cảnh của người trẻ xuất khẩu lao động, và thái độ sống đức tin của người trẻ xa quê trong một môi trường văn hoá xã hội có nhiều khác biệt Kitô giáo. Chẳng hạn, Hiền trọ ở nhà ông Tokieda người Tin Lành với kỷ luật nghiêm nhặt, cô phải ứng xử thế nào để không cảy ra mâu thuẫn tôn giáo với ông bà; hoặc để có thêm tiền cô đã nhận chơi đàn cho ca đoàn nhà thờ Tin Lành, tập hát thánh ca Tin Lành, nghe Mục sư Tin Lành giảng mà không phai nhạt hoặc “rối đạo” so với tín lý Công giáo; hoặc chịu sự khinh miệt của bà Fuji. Hiền cảm thấy xấu hổ khi thấy có một em bé Nhật làm dấu khi ăn cơm trong khi lâu rồi cô đã không làm dấu trước mặt thiên hạ…

Nhưng chủ đề bao trùm là những ảo tưởng về kiếm tiền của người lao động xuất khẩu (hai chị em Hoài Hương và Thanh Hiền). Họ bị nợ chồng chất, nhất là khoản tiền vay nóng 250 triệu để được đi lao động. Ở Nhật, Thanh Hiền làm việc hết sức vất vả, và nếu không “làm thêm” thì chỉ đủ sống và dư chút đỉnh. Mơ ước trả nợ và đổi đời vẫn mù mịt.“Hiền băn khoăn tự hỏi, mình tới đây để làm gì? Đã gần hai năm trôi qua vẫn chưa trả hết số tiền đã nợ để đến được xử sở này. Đâu là Thiên Đường, đâu là Địa Ngục?

                Truyện dài Đóa hồng thứ 40 còn đặt ra nhiều vấn đề “nóng” của xã hội Việt Nam đương đại. Đó là tuổi trẻ sống ảo, yêu ảo; vấn đề Formosa; việc xuất khẩu lao động chất chứa nhiều điều phạm pháp và hiểm nguy như vay nóng, bị dụ dỗ làm việc phạm pháp (như đóng phim JAV, trồng cần sa…); Vấn đề “đại kết” Công giáo và Tin Lành. Ở Việt Nam sinh viên học xong ra trường, muốn xin được việc thì phải “chạy” tiền, hoặc phải bán thân cho giám đốc (chuyện của Huyền My); Việt Nam đã không trọng dụng tài năng, hoặc xu thế làm mẹ đơn thân không bị kỳ thị như hồi xưa…

Tác phẩm thuộc dạng truyện ký nên những ghi chép về một số mặt đời sống và con người ở Nhật khá chi tiết và sống động, hoặc những hi chép về đời sống của giới trẻ hôm nay khiến người đọc trưởng thành phải trăn trở…

10.VINC CHUNG THANH HUY

            Anh sinh năm 1976, hiện đang sống tại thành phố Hồ Chí Minh.

            Chung Thanh Huy là tác giả đoạt giải nhiều năm của VHNT Đất Mới:

Câu chuyện chiều mưa. (Giải KK 2016)

Những ánh sao đêm (Giải KK 2017)

Ở phải (Giải II. 2020)

            Tủ sách Nước Mặn trong chương trình hướng đến 400 năm Văn học Công giáo Việt Nam đã in tập truyện ngắn BÃO, gồm 11 truyện: Ở phải, Ca đoàn Xẻo Lá, Con trai ông Mục sư, Biển của đời người, Câu chuyện chiều mưa, Bão biển, Những ánh sao đêm, Xưởng mộc ông Hùng, Phía sau nỗi đau, Chuyện ở xóm Cồn, Ra Giêng thì cưới.

            Ở phải là một truyện hay đậm màu sắc Nam bộ.

11.TÁC GIẢ VĂN XUÔI Ở CÁC GIÁO PHẬN

            Trên website của 27 giáo phận, tôi ghi nhận được 9 giáo phận có trang văn thơ trong Mục vụ văn hóa. Đó là Gp Hưng Hóa, Gp Phát Diệm, Tổng Gp Huế, Gp Quy Nhơn, Gp Bà Rịa, Gp Đà Lạt, Gp Long Xuyên, Gp Phú Cường, Gp Xuân Lộc. Việc đầu tư cho các chuyên mục văn thơ Công giáo cũng không đồng đều. Có trang bài vở rất phong phú nhưng có trang, người phụ trách chỉ chép lại (coppy) bài vở ở các trang khác, không phát huy bài vở của tác giả trong giáo phận.

GIÁO PHẬN HƯNG HÓA

Trên website giáo phận Hưng hóa có truyện Kinh thánh của Quang Hải và Câu chuyện truyền giáo của Lm Nguyễn Văn Thành.

QUANG HẢI

Quang Hải có truyện dài Trở về và một số truyện ngắn. Đặc biệt là những truyện ngắn Kể truyện Kinh thánh.

            Trở về (truyện dài) là tâm trạng đầy mặc cảm của nhân vật Hoàng khi rời chủng viện. Dù được mẹ, bà nội, cha sở, ông trùm cảm thông và tạo điều kiện cho hoàng hội nhập với giáo xứ song anh bị ca đoàn tẩy chay. Hoàng phải chia tay với mẹ và bà để đi thăm cha linh hướng rồi về Hà Nội tìm việc. Tuy là một truyện dài nhưng dung lượng cốt truyện chì là một truyện ngắn. Hành động truyện đơn giản, không có nhiều tình huống truyện làm phát triển số phận nhân vật. Chủ đề mờ nhạt.

            Để viếtnhững truyện ngắnphóng tác Kinh Thánh, anh dựa theo cốt truyện trong Kinh thánh rồi hư cấu không gian, thời gian, nhân vật…

Ánh bình minh trong đêm thuật lại việc Gioan nói chuyện với Simon trong đêm. Simon hối hận vì đã chối thầy ba lần…

Ném đá. Phi-lip gọi Anrê đi xem ném đá một người tên Ste-pha-nô. Anrê  nhớ lại lần

 xem người phụ nữ ngoại tình bị ném đá. (Ga 8, 3-11)

Ngày dài của ông Arahon kể chuyện Arahon làm con bê bằng vàng cho dân chúng thờ và bị Môsê quở trách (Sách Xuất hành, chương 32).

Phú ông cầu nguyện lấy cốt truyện của dụ ngôn người Pha-ri-sêu, và người thu thuế.
 cầu nguyện trong Kinh thánh (Lc 18, 9-14), kết hợp với truyện của Nam Cao (Tư cách mõ).

Quyết lên đường là truyện lấy ý từ chuyện ba nhà đạo sĩ đi theo ngôi sao lạ đến viếng Đức Giê su mới giáng sinh (Mt 2, 1-12). Nhưng truyện của Quang Hải chỉ có hai thầy trò Ba Dút, nhân vật do tác giả hư cấu.

Quang Hải có ưu thế kể chuyện, miêu tả tâm trạng và khả năng sáng tạo những nhân vật ngoài Kinh thánh nhưng vẫn giữ được sự trung thực với Kinh thánh. Đây là một xu hướng truyện có khả năng phát triển nhưng đòi hỏi nhiều tài năng.

Rất tiếc, ngòi bút của Quang Hải còn non tay trong kiến tạo tác phẩm. Chủ đề không rõ. Có rất ít sáng tạo những nhân vật, tình huống, bối cảnh mới. Trong cách viết tâm trạng nhân vật, còn có bóng dáng của Nam Cao.

LM NGUYỄN VĂN THÀNH.

Lm Nguyễn Văn Thành có những Câu chuyện truyền giáo

Tác giả kể truyện mình truyền giáo cho nhiều đối tượng trong những hoàn cảnh khác nhau. Đó là những cuộc gặp gỡ, thăm hỏi, lắng nghe chia sẻ với tha nhân, rồi nhân đó nói về Chúa cho mọi người. Với thái độ thân thiện, gần gũi, quan tâm và tôn trọng người đối thoại, tác giả thu phục được nhân tâm.

Truyện thường mở đầu bằng những lời giới thiệu thời gian, không gian, hoàn cảnh dẫn đến gặp gỡ. Sau đó, là đối thoại trực tiếp giữa tác giả và nhân vật. Cuộc đối thoại có chức năng kể chuyện như trong ngôn ngữ kịch. Kết thúc truyện, tác giả dẫn lời Kinh thánh để tô đậm chủ đề, thay cho bình luận.

            Truyện ghi nhận nhiều vấn đề của hiện thực truyền giáo. Chẳng hạn ngày xưa  xã hội thường khắt khe với tôn giáo (Hiểu lầm đáng tiếc). Linh mục và người làm việc đạo (ông trùm) thường bị bắt tù (Cái giá phải trả cho việc xây cầu ao). Nhiều người đạo gốc nhưng do hoàn cảnh đã bỏ đạo (Em đã bỏ đạo rổi, Hẹn nhau vào đêm giao thừa, Kiên trì gỡ từng nút…), hoặc những khó khăn khi đối thoại với những lương dân theo tôn giáo khác (Đối thoại với người Phật giáo; Đối thoại với người Tin Lành; Đối thoại với người Trí thức, Đối thoại với người dân tộc Mường)…

Đây là dạng Ký (chuyện người thật việc thật). Tác giả có ý chia sẻ kinh nghiệm truyền giáo cho mọi người bằng sự gặp gỡ, lắng nghe và quan tâm. Tất nhiên người làm việc truyền giáo phải có hiểu biết về nhiều mặt, phải có tài ngôn ngữ và hết lòng vì tha nhân.

***

            GIÁO PHẬN VĨNH LONG

            Trên website giáo phận Vĩnh Long có “Chuyện Đơn Sơ về Giáo Lý và Giáo Dục”của Lm Emanuel Nguyễn Vinh Gioang và “Truyện suy gẫm” của Lm Nguyễn Nhân Tài.

LM EMANUEL NGUYỄN VINH GIOANG

Linh Mục Emanuel Nguyễn Vinh Gioang có 100 “Chuyện Đơn Sơ về Giáo Lý và Giáo Dục” .

Nội dung nói về:

Các gương tử đạo, gương đức tin như truyện của Ampere, Volta, Thánh Phêrô thành Verona; truyện Hãy cho tôi đủ tiền! Gương các thánh như thánh Đaminh, Têrêxa Hài Đồng; thánh Bosco; các truyện Thánh Phanxicô Xaviê giảng đạo bằng gương tốt; Hai nguyên tắc của Thánh Gioan Lùn tu rừng…

Về lời dạy khôn ngoan của Đức Giáo Hoàng Piô IX; Đức Giáo Hoàng Piô XII,

Về truyền giáo, các truyện: Truyền giáo bằng điện thoại. Gương truyền giáo của giáo dân Lôrăng, 26 tuổi; các truyện: Những lời khuyên hay cho những ai đi truyền giáo;  Sức mạnh của Thánh Giá là vô địch!; Một nữ tu làm cho một toán lính không còn kể chuyện tục tĩu nữa; Bạn độc nhất của linh mục (truyền giáo ở bắc cực)…

Về Sống đạo, các truyện: Một nữ tu Mỹ. Dự Thánh Lễ từ xa; Chúa muốn tôi sống để cứu ông; Chết để cho đoàn chiên được sống…

Những vấn đề đức tin, các truyện:  Chết quá thình lình, dọn mình có kịp không?; Thời gian ở trong tay Chúa; Phương thế linh diệu để thắng các cơn cám dỗ; Các thánh chết vui vẻ (nêu gương nhiều vị thánh)…

Giảng giải lẽ đạo, các truyện: Chúa Giêsu Kitô là Vua lạ lùng;Vua Giêsu Kitô đăng quang trong hồi Thương Khó. Kẻ thù của Vua Giêsu…

Có một mảng truyện nói về các thánh tử đạo Việt Nam: Giáo Hội Việt Nam là Giáo Hội Tử Đạo ; Cái giá trung thành của các Thánh Tử Đạo Việt Nam; Kế hoạch Phân Sáp của Vua Tự Đức quá sâu độc! Các thánh Tử Đạo Việt Nam thuộc đủ mọi thành phần trong xã hội; Một vài lời cúa các Thánh Tử Đạo Việt Nam; Các hoàng đế Rôma giết đạo, đều đã trãi qua những cái chết dễ sợ (liệt kê vài cái chết dữ)

Đây là loại truyện Flash (truyện chớp). Không rõ tác giả sáng tác hay sưu tầm. Hầu hết là truyện người thật việc thật. Nhân vật là người nước ngoài (Mirabeau, trong thời kỳ Cách Mạng Pháp, nổi tiếng là kẻ ghét Chúa, ghét Đạo Công giáo), cũng có khi là phiếm chỉ (Một Đức Giám Mục kia…). Tác giả vừa kể vừa phân tích nói rõ nội dung chủ đề (xin đọc: Cầu nguyện là sức mạnh lớn nhất giúp chúng ta giải quyết những vấn đề).

Có truyện chỉ thuật thông tin: Giáo Hội thật quá lạ lùng!

Có truyện giảng giáo lý: Thánh Lễ và Thánh Thể làm cho giáo xứ sống động.

Có truyện là một bài nghị luận ngắn. Xin đọc: Thánh khiêm nhượng, mới là thánh thật; Giờ chết, giờ hấp hối, là giờ nguy hiểm nhất; Có Chúa! Có Chúa! (phản bác lại Nietzche và Camus);Tìm tòi và suy nghĩ; Không thấy Chúa Giêsu nhưng cảm thấy có Chúa Giêsu một cách đặc biệt.

Gọi là truyện “đơn sơ” vì

Có truyện chỉ là một câu nói của nhân vật (“Thế gian làm thì thì làm, Giáo Hội cứ cầu nguyện và hát ca! “.), hoặc truyện chỉ là 2 câu đối thoại (Nhà bác học danh tiếng chỉ mong được lên thiên đàng mà thôi).

Nghệ thuật tương phản được sử dụng nhiều. Truyện thường chia làm hai phần (hai vế) đối lập nhau. Phía chính nghĩa luôn chiến thắng.

Cách kể mạch lạc, phân tích và bình luận thuyết phục nên nhiều truyện để lại những ấn tượng giáo dục tốt. Đây là những truyện có thể dùng minh họa trong những bài giảng lễ.

LM GIUSE MARIA NGUYỄN NHÂN TÀI

Lm. Giuse Maria Nguyễn Nhân Tài, csjb có 215 truyện gồm các chủ đề

Truyện suy gẫm: 117

Mội ngày một câu chuyện: 71

Truyện giáo dục trẻ: 09

Vui buồn đời Linh mục: 18

Truyện suy gẫm được ghi rõ nguồn. Tác giả sưu tầm và dịch từ các tác phẩm Trung Quốc: Bài ca của loài ếch; Chuyện ngụ ngôn cho thời hiện nay; Thế Thuyết Tân Ngữ; Ngải Tử tạp thuyết; Tô Đông Pha tập; Phủ Chưởng lục; Mẫn Thuỷ Yến Đàm lục; Hiên Cứ lục; Trình Sứ; Thi Chú Tô Thi; Mạc Phủ Yến Nhàn lục; Tiếu Đảo…Sau khi giới thiệu truyện, tác giả viết “suy tư”.

Truyện thiếu nhi (không ghi nguồn), có thêm phần thực hành: thí dụ các truyện: Con ngỗng ngông cuồng tự đại; Thỏ đen mang đôi khuyên tai; Ba anh em học nghề; Áo may ô vui vẻ; Con dơi cô độc; Chim nhỏ làm tổ…

Những truyện Vui buồn đời Linh mục (không ghi nguồn và không có lời suy tư): Phá bỏ cổ lệ; Tiếng Chúa; Mục tử và làm công; Trách móc; Niềm vui; Xin chia cười; Giờ nghỉ trưa; Phục vụ-Gia trưởng

Trong cấu trúc bài viết, phần kể truyện chỉ để gây sự chú ý, đôi khi hấp dẫn, nhân đó tác giả suy tư, và gửi đến người dọc, người nghe những thông điệp về nhận thức, về đức tin, về sống đạo. Có khi nội dung truyện không liên quan gì đến lẽ đạo (bởi đa số là truyện cổ Trung Quốc)…

Về nội dung những bài “suy tư”, tác giả tập trung giảng Lời chúa. Chẳng hạn:

           Nếu Đức Ki-tô không hy sinh, không chết trên thập giá và sống lại, thì chúng ta làm sao được gọi Thiên Chúa là cha, và hy vọng hưởng phúc với Ngài trên thiên đàng chứ? (truyện Sông suối và đá ngầm). Xin đọc thêm các truyện: Vườn E đen ở trên đất”, Con xâu róm quá xấu, truyện Về nhà tìm được đạo thật.

            Nhiều truyện giảng về tu đức, về giáo lý hôn nhân; về người trẻ (chọn nghề lương cao, làm việc thoải mái).Có truyện  khuyên bảo Linh mục (Cát sỏi phía sau; Sang năm cùng tuổi; Chỉ có Hải đường tỏa hương; Hai thứ ấy…)

            Những truyện giáo dục trẻ, tập trung vào giáo dục nhân bản và đức tin (Chuột túi và người hành khất);  Chim ưng cô độc; Tranh cãi tên trước tên sau…).

            Một vài đặc sắc nghệ thuật.

            Tác giả chọn và dịch được nhiều truyện hay. Đây là kiểu truyện rất ngắn (Flash story) quen thuộc trong cổ văn. Truyện thường mang nghĩa ẩn dụ và chứa đựng những bài học khôn ngoan.

            Tuy vậy, khi đưa vận dụng những truyện này để giảng Kinh thánh hoặc nói lẽ đạo, giáo dục đức tin, thật không dễ dàng. Hầu hết các truyện được kể chỉ là nhịp cầu, chỉ là cái áo khoác, là một cách gây chú ý với người nghe, từ đó diễn giả dẫn đến những nội dung giảng đạo, không nhất thiết những tín lý được giảng có liên quan gì đến truyện.

Đã có những liên hệ suy tư không logic (Xin đọc truyện Đầu xe hướng nam, bánh xe hướng bắc). Cũng có truyện có thể gây phản cảm (truyện: Tư thế hiên ngang của Tào Tháo. Người nghe có thể hiểu là hãy học theo gương Tào Tháo. Trong Tam quốc diễn nghĩa, Tào Tháo là một nhân vật gian hùng, sao có thể dùng để giảng Kinh thánh).

Hầu hết truyện dịch từ các tác phẩm Trung quốc, nói về con người Trung quốc và văn hóa tư tưởng Trung quốc, ngày nay rất xa lạ với người trẻ. Mấy ai biết về: Hoàn Đạo Cung; Nguyễn Tuyên Tử ; Khổng Quần, Vương Hiếu Bá; Chung Sĩ, Lý Tinh, Kê Khang, Lữ An, Vương Văn Độ, Phan Vinh Kì, Giản Văn Công; Chu Cát Lệnh, Vương Tử Du, Tề Tuyên Vương, Ngải Tử.

Trong xu thế thoát Trung, chúng tôi nghĩ tác giả nên khai thác nguồn tư liệu từ Kinh thánh (cả Cựu ước và Tân ước, hoặc Tông đồ công vụ) thì tốt hơn.

Nhìn chung các truyện được kể đều hướng về mục đích giáo huấn. Truyện là phương tiện, là công cụ giảng đạo, không phải là mục đích sáng tạo Cái Đẹp. Truyện chỉ dùng để gây sự hấp dẫn lúc đầu sau đó dẫn đến những bài học của Kinh thánh.

LITTLE STREAM

Trên website Giáo phận Vĩnh Long, Little Stream có các truyện: Rớt lại bên hè, Truyền giáo, Níu, Kẹo đậu phọng, Chúa đâu?

 Little Stream có cách viết điêu luyện, phong cách trẻ trung. Truyện giàu tình giáo dục và ý nghĩa nhân văn, đề cập trực diện những vấn đề hiện thực. Tuy vậy, cốt truyện đơn giản và cách viết không mới.

***

            GIÁO PHẬN LONG XUYÊN

 Hầu hết truyện ngắn trên website của giáo phận Long Xuyên đều hướng đến mục đích giáo huấn. Các tác giả chưa chú ý nghệ thuật văn chương. Việc kiến tạo tác phẩm còn non tay.

Hồng Hà có các truyện: Chốn bình yên con tìm về, Chiếc lá liền cành, Tiếng khóc trong đêm, Người mẹ ve chai, Bài học trung tín từ gia đình, Phép mầu của tha thứ.Tác giả có ý thức viết truyện nghệ thuật, song tính giáo huấn, chất nghị luận lấn át tính nghệ thuật.  

Ly Phạm có các truyện: Đi trong bình an, Chiên con hiền lành, Ở cùng nhau, Cầu vồng. Hầu hết chưa thành truyện. Cốt truyện, tình huống, nhân vật, chủ đề chưa được xây dựng một cách có nghệ thuật. Truyện Cầu vồng chỉ là một bài văn nghị luận về ly hôn ly dị…

Lạc Bút có các truyện: Sứ giả hòa giải, Tình phụ tử, Ông cố làm nhà, Cúi xuống, Gương vỡ lại lành, Vươn lên. Kiểu truyện người tốt việc tốt. Tác giả thuật sự việc và rút ra bài học giáo huấn như văn nghị luận, không chú ý nghệ thuật văn chương.

Ngàn Hạc Giấy có các truyện: Chuông chiều ngân đâu đây, Cánh hoa tàn dâng Mẹ. Truyện còn rất đơn giản về cốt truyện, nhân vật. Cánh hoa tàn dâng Mẹ  chỉ là tâm trạng, hồi tưởng của một tù nhân đã tù 10 năm vì ma túy, nghe tiếng chuông nhà thờ và nghe tiếng loa hát vài dâng Mẹ, nó nhớ Tháng hoa. Nó hái mấy bông hoa dại bên hàng rào dâng Mẹ. Nó mong ra tù làm lại cuộc đời.

Quốc Dũng có truyện Tình thương và nỗi nhớ, kể lại tâm trạng của Khang. Khang là con một, cha mẹ là nhà giáo. Học xong Đại học, cậu đi tu dòng. Khang nhớ nhà khi do dịch Covid cha mẹ không lên thăm được.

Hoàng Văn Tuyên kể truyện “Tấm gương Công giáo” hồn nhiên của giáo dân Nam Bộ. Truyện Xin lễ kể rằng:Hôm nay, gã đi mục vụ thăm bệnh nhân. Gặp cha Thịnh là bệnh nhân. Ngài nhớ lại chuyện xưa: Cha nhận Bài Sai của Đức Cha Micae về giáo xứ Kiến Thành, Chợ Mới, An Giang, mà sau này cha hay gọi là Thành Kiến. Giáo dân qúy mến. Họ là nông dân có gì biếu cha cái ấy. Một bà biếu chuối, cha ăn, đêm cha bị Tào Tháo rượt. Một đứa nhỏ mang con cá đến xin lễ giỗ cho linh hồ Phao lô. Con cá nhảy mương bơi đi mất. Ông bố đến cự, sao cha không làm lễ cho linh hồn Phao Lồ. Cha lại mất công giải thích. Ông ta mời cha trưa đến nhà ăn giỗ.

Ngô Văn Vỹ kể truyện “Tấm gương Công giáo”, giới thiệu Viện Phụ Châu Sơn, Đây không phải là một truyện ngắn.

***

            GIÁO PHẬN QUY NHƠN

            40 truyện ngắn trên tập san Mục Đồng và trên trang của giáo phận Quy Nhơn giúp người đọc hiểu các nhà văn Công giáo hiện nay quan tâm đến điều gì.

Nhiều tác giả kể những truyện tình lãng mạn trong nhiều hoàn cảnh khác nhau (điều này dễ hiểu vì đa số là cây bút trẻ).

            Chủ đề thứ hai được quan tâm là những khó khăn của đời tu, của người sống đời dâng hiến (Đời dâng hiến-Nguyễn Văn Ninh); khó khăn của người tu xuất(Bù Nhìn rơm-Hải Miên), khó khăn truyền giáo (Cơn mưa ân tình –Nguyễn Ngọc Bích).

            Chủ đề thứ ba là sự đổ vỡ hôn nhân trong các gia đình Công giáo.

            Có nhiều truyện hay viết về trẻ thơ. Trẻ em là nạn nhân của người lớn. Nhiều truyện miêu tả nỗi bất hạnh của trẻ em con nhà nghèo;

            Tình quê hương, tình bạn, tình người cũng là những chủ đề được viết rất xúc động.

            Trong 40 truyện, tôi tâm đắc với những truyện sau đây:

1. Lời của trái tim-Lê Quang Trạng (đã giới thiệu).

            2. Cái tết của Nhi-Nguyễn Thị Khánh Liên (đã giới thiệu).

            3. Cỗ tràng hạt bị đánh cắp-Nguyễn Ngọc Bích.

            4. Tôi là người Kitô hữu-Võ Trịnh Như Quỳnh.

            5 .Ngược- Nguyễn Chí Ngoan.

6. Một thoáng vùng cao- Trần Thị Vân Anh.

7. Chờ xuân-Hải Miên.

8. Chị tôi-Lê Thị Xuyên.

9. Nắng hôm ấy màu hồng-Lưu Cẩm Vân.

10.Một chốn bình yên-Dom. Phạm.

10 truyện ngắn trên ít nhiều đạt được những phẩm chất nghệ thuật của truyện ngắn Việt đương đại. Các tác giả là những ngòi bút đầy hứa hẹn.

            (Xin đọc bài viết: Văn học Công giáo giáo phận Quy Nhơn [[13]]

            ***

            GIÁO PHẬN XUÂN LỘC

            Các tác giả văn xuôi tập trung ở Giải VHNT Đất Mới.

            (Xin đọc bài viết Văn học Công giáo-giáo phận Xuân Lộc [[14]]

Tôi chú ý đến các tác giả truyện dài:

Têrêsa Nguyễn Phương Thảo (Canada): Ôi tội hồng phúc.

Seraphim Đặng Kim Thoa (Hải Phòng): Sứ mạng; Thiên Chúa Cha của tôi.

Phạm Thị Lành: Huỳnh đệ vàng; Lối về ; Hương thạch thảo.

M. Vinc Nguyễn Thị Chung: Đâu là hạnh phúc thật; Thử chết một lần ;

                                Khi trái tim lên tiếng; Chàng xe ôm.

Maria Goretti Ng Thị Xuân. Vòng xoáy yêu thương; Ngã tư thập tự;

                                               Ngựa chứng trong tu viện.

Maria Hà Thị  Thúy Diễm (Phú Cường): Con hoang; Những Nốt Nhạc Nên Đời;

                                                                          Xương bánh đúc.

M. Innocentio Nguyễn Thị Duyên, O.Cist: Di trú tới Thiên Chúa.

Các tác giả trên có tác phẩm đạt được những giá trị tư tưởng-nghệ thuật nhất định, khả năng sáng tạo phong phú và văn phong có cốt cách riêng. Nhiều tác giả có ngòi bút chuyên nghiệp (Têrêsa Nguyễn Phương Thảo, Seraphim Đặng Kim Thoa)

***

Phần III: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA VĂN XUÔI CÔNG GIÁO ĐƯƠNG ĐẠI

  1. Văn chương chuyên nghiệp và văn chương phong trào

Phần “Nhận dạng” trên giúp người đọc nhìn rõ hai bộ phận văn xuôi Công giáo đương

 đại. Đó là văn chương “chuyên nghiệp” và “văn chương phong trào”.

            Văn chương chuyên nghiệp là những tác phẩm lấy việc sáng tạo nghệ thuật là chính (Fiction). Mỗi nhà văn quan tâm đếm một mảng hiện thực riêng, tìm kiếm nhân vật thể hiện lý tưởng thẩm mỹ của riêng mình, đặt ra những vấn đề theo góc nhìn từ chỗ đứng của riêng mình và sử dụng một bút pháp phù hợp với “cái tạng” của riêng mình. Tác phẩm thực sự là khám phá, sáng tạo “Cái Đẹp mới”, thể hiện tư tưởng-thẩm mỹ mới (đặc biệt là tư tưởng Mỹ học Kitô giáo và Chủ nghĩa Nhân văn của Tin Mừng). Những tác giả và tác phẩm ấy có giá trị đóng góp cho sự phát triển văn học Công giáo trong thời đại mới.

            Văn chương phong trào là những tác phẩm chỉ lấy việc truyền đạt nội dung là chính mà không có sáng tạo nghệ thuật (sáng tạo về hình tượng, bút pháp, tư tưởng-thẩm mỹ và phong cách). Tác giả viết theo năng khiếu, dùng văn học làm công cụ giáo dục trực tiếp. Có tác giả kỹ năng viết tác phẩm còn hạn chế.

            Khi xem xét sự phát triển của văn chương Công giáo đương đại, nhà nghiên cứu sẽ quan sát kỹ “văn chương chuyên nghiệp”, và tìm kiếm những tài năng văn chương của tương lai trong các “tác giả phong trào”.

            2.Văn xuôi Công giáo đương đại phản ánh một diện rất rộng đời sống người Công giáo trong quá trình lịch sử.

            Toàn bộ tác phẩm của Song Nguyễn được coi là một bộ sử thi về đời sống của người Công giáo từ trước  1945 đến thời kỳ đổi mới (1986). Người đọc có thể thấy nề nếp sinh họat nhà đạo trước 1945, không khí kháng chiến chống Pháp, rồi di cư 1954, biến động ở miền Nam những năm 1960, những đổi thay trước và sau biến cố lịch sử 30/4/1975, phong trào đi xây dựng Kinh Tế Mới…Trong trường kỳ lịch sử như thế, người Công giáo luôn cậy trông vào Chúa, tin tưởng vào sự quan phòng của Chúa, “việc Chúa muốn, Chúa sẽ làm”…

            Truyện của Lm Nguyễn Trung Tây lại ghi nhận một mảng hiện thực khác. Hiện thực miền Nam trước và sau 1975, số phận những thuyền nhân vượt biên, những khó khăn khi hội nhập văn hóa nơi định cư mới, những vấn đề của di dân trong thân phận lưu vong, sự thành đạt của người Việt ở Mỹ, việc bảo tồn văn hóa, ngôn ngữ Việt đối với thế hệ trẻ người Việt ở nước ngoài.

            Bên ngoài cổng nhà thờ của Lm Cao Gia An là thân phận những người nghèo, những trường hợp hôn nhân “rối”, những cô gái “chửa hoang”, những “cánh hoa rơi” giữa phố thị,  những con người bị công nghiệp hóa tước đi môi trường sống, hoặc làm tha hóa những điều đạo đức tốt đẹp, làm tan vỡ những cuộc tình hồn hậu, làm ly tán những gia đình vốn nề nếp hạnh phúc …

            Các tác phẩm của Lm Đaminh Nguyễn Đức Thông phản ánh một hiện thực riêng là đời sống của các Linh mục, các dòng tu; và đời sống giáo dân từ thời Ấp chiến lược (1960) đến Hiệp định Paris 1973, biến cố lịch sử 1975 và những ngày khó khăn người dân đi Kinh tế mới, lương của giáo viên 60 đồng…Trong các gia đình công giáo có bao nhiêu là bi kịch, bao nhiêu đau thương mất mát vì chiến tranh. Lòng đạo phai nhạt và xuống cấp trầm trọng: nạn phá thai, tình trạng loạn luân (bố chồng chiếm đoạt con dâu, thầy chiếm đoạt trò, chồng có vợ lớn vợ nhỏ, giáo dân chửi cha sở hàng ngày, giáo dân tung tin vu khống cha sở khiến ngài phải chuyển đi nơi khác. Sự giả dối đã thống trị khắp nơi: bằng giả, Tiến sĩ giả, hôn nhân giả, Linh mục giả, trẻ mồ côi giả, đến cây thánh giá cũng giả (truyện Cây Thánh giá giả). Tác giả đề xuất nhiều vấn đề tư tưởng và giáo dục theo truyền thống Tin Mừng.

            Tác phẩm của nhà văn Nguyễn Thị Khánh Liên đi sâu vào những bi kịch của gia đình Công giáo trong thời đại toàn cầu hóa: sự đổ vỡ của hôn nhân, khát vọng của người phong cùi, ngư dân dẫm nước mắt trong đại họa các biển chết, nạn xâm hại tình dục, sự thất lạc gia đình trong những cuộc vượt biên…

            Nhà văn Nguyễn Văn Học khai thác vấn đề xã hội của tôn giáo, đặc biệt là những người Công giáo tuy theo Chúa nhưng lại sống giả hình, gây ra bao thảm cảnh cho tha nhân, chẳng khác gì bọn kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình xưa. Họ gây ra những tranh chấp đất đai, những cuộc đánh nhau giữa làng bên lương và làng Công giáo với những hận thù truyền kiếp.

            Những Câu chuyện truyền giáo của Lm Nguyễn Văn Thành và “Truyện suy gẫm” của Lm Nguyễn Nhân Tài lại phản ánh một hiện thực khác, hiện thực sống đạo và truyền đạo. Đặc biệt là sự khó khăn trong việc truyền giáo hôm nay, và cả những vấn đề đối với Linh mục. Những truyện “rất thực”như vậy có thể giải thích cho một vấn đề lớn của Giáo hội Việt Nam là hơn  60 năm qua, việc truyền giáo ở Việt Nam không có kết quả.

            Những tác phẩm văn xuôi của Giải Viết văn Đường trường và Giải VHNT Đất Mới hầu hết là của các tác giả trẻ, họ quan tâm đến những vấn đề hôm nay như: tình yêu, hôn nhân khác tôn giáo, bảo vệ thai nhi, bảo vệ môi trường, đối thoại Công giáo và Tin lành trong đại kết, những khó khăn về tôn giáo, việc làm của người trẻ khi vào đời và cuộc sống, trăn trở của những người sống đời dâng hiến (linh mục, nữ tu…)

            3.Tư tưởng Mỹ học Kitô giáo và Chủ nghĩa nhân văn Công giáo được khám phá và thể hiện phong phú [[15]].

            Đặc biệt trong các tác phẩm của Song Nguyễn và của Lm Nguyễn Trung Tây, tư tưởng Mỹ học Kitô giáo và tư tưởng Nhân văn của Tin mừng được trình bày rất đa dạng trong việc khắc họa chân dung đức Giêsu nơi tha nhân. Xin đọc Đời Dâng hiến, Đồng hành, Đồng cỏ xanh của Song Nguyễn, các truyện Quán rượu nửa đêm, Giấy bạc con công, Cây thánh giá gỗ mùa giáng sinh…của Nguyễn Trung Tây.

Đối với các tác giả trẻ, nhiều người chưa được trang bị về lý luận văn học Công giáo, chưa vận dụng được tri thức Triết học và Thần học đủ để làm nên tư tưởng cho tác phẩm, tư tưởng Mỹ học Kitô giáo và chủ nghĩa Nhân văn Công giáo còn mờ nhạt. Chẳng hạn nhiều truyện ngắn có yếu tố Kitô giáo của Nguyễn Văn Học, bóng tối hiện thực còn che lấp ánh sáng của đức Kitô (Đức Giê su nói: “Tôi là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi, thì không ở lại trong bóng tối”. Ga 12, 46)

Tư tưởng Mỹ học Ki tô giáo và Chủ nghĩa nhân văn của Tin Mừng là hạt nhân làm nên tác phẩm văn học Công giáo.

Bởi Cái Đẹp đích thực là Thiên Chúa. Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp!” (St 1, 31). Đức Giêsu là Cái Đẹp trọn hảo. Khi Người biến hình trên núi Tabor, “Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng”. Có tiếng trong đám mây: “Đây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta”(Mt 17, 5).

Chủ nghĩa Nhân văn của Tin Mừng nhìn con người là hình ảnh của Thiên Chúa: Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa” (St 1, 27) và con người ở trong tình thương yêu của Thiên Chúa: “Thầy là cây nho, anh em là cành” (Ga 15,5); “Thật vậy, chính Chúa Cha Yêu mến anh em, vì anh em đã Yêu mến Thầy, và tin rằng Thầy từ Thiên Chúa mà đến” (Ga 16, 27). Tình yêu thương con người phải được thể hiện cụ thể như dụ ngôn người Samari nhân hậu (Lc 10, 29-37). Thí dụ truyện Tình người của Nguyễn Văn Học, những truyện ngắn trong Sông Chảy về đâu của Nguyễn Thị Khánh Liên.

4. Sự đa dạng về phong cách và bút pháp.

Đa phần tác phẩm văn xuôi Công giáo đương đại được viết bằng bút pháp hiện thực, nhờ đó phản ánh được đời sống đức tin của người Công giáo trong mọi hoàn cảnh lịch sử. Nhưng tuy cùng bút pháp hiện thực, song phẩm chất nghệ thuật trong tác phẩm của Song Nguyễn, của Lm Nguyễn Trung Tây, truyện của Lm Cao Gia An, của Nguyễn Văn Học, Nguyễn Thị Khánh Liên, Vinh Kiu và Lm Nguyễn Văn Thành là rất khác nhau. Lm Đaminh Nguyễn Đức Thông viết những truyện ngắn theo kỹ thuật viết tiểu thuyết.

Văn của Song Nguyễn có sự mộc mạc chân chất hướng về công chúng bình dân, trong khi văn của Lm Nguyễn Trung Tây rất “Tây”, rất “trẻ” và có bề dày văn hóa tư tưởng không dễ đọc. Nguyễn Thị Khánh Liên có giọng buồn thấm thía trước những bi kịch thì Nguyễn Văn Học lại đầy trăn trở trước thực tại còn nhiều bóng tồi. Trong khi Vinh Kiu rất Teen thì Nguyễn Phương Thảo lại đậm màu sắc tư tưởng triết học…

Người đọc còn gặp bút pháp lãng mạn trong tiểu thuyết Hương Thạch thảo của Phạm Thị Lành, tiểu thuyết thần thoại giả tưởng trong tiểu thuyết Sứ Mệnh của Seraphim Đặng Kim Thoa, những truyện hư cấu phóng tác từ Kinh thánh trong truyện của Quang Hải, những “truyện Chớp” (Flash) của Lm Nguyễn Văn Thành, Lm Emanuel Nguyễn Vinh Gioang, Lm Giuse Maria Nguyễn Nhân Tài…

Tính dân chủ và tính hiện đại thể hiện ở nhiều mặt của văn xuôi Công giáo đương đại. Xin đọc truyện ngắn Nguyễn Trung Tây, Nguyễn Văn Thành, truyện dài Đóa hồng thứ 40 của Vinh Kiu và Ôi tội hồng phúc của Nguyễn Phương Thảo…Tính dân chủ trong việc chọn đề tài, chọn nhân vật, không có sự phân biệt giữa kiểu nhân vật này với kiểu nhân vật kia, nhà văn không áp đạt tư tưởng của mình lên độc giả, nhà văn có thể tiếp cận mọi vấn đề mà không bị làm lệch đi bởi lăng kính cá nhân.

Tính hiện đại thể hiện đặc biệt ở việc sử dụng vốn từ tiếng Việt đương đại khác với kiểu ngôn ngữ trong truyện chương hồi hay tiểu thuyết Tự Lực Văn Đàn (xin đọc truyện Nguyễn Trung Tây, Nguyễn Phương Thảo, Vinh Kiu)…,

Tính hiện đại còn thể hiện ở việc xây dựng các kiêu nhân vật. Nhân vật của văn học Công giáo đương đại là nhân vật hôm nay, đang sống chung quanh ta, nhân vật của mọi biến cố xã hội. Thí dụ Song Nguyễn viết về Người Mẹ Lao Công, Người Mẹ Bán Vé Số, Người mẹ bại liệt, Người Mẹ Công Nhân, Người mẹ nông dân, Người Mẹ Mù, Người Mẹ Nuôi…; Nguyễn Trung Tây viết về “những đời sống bên lề xã hội”: Chuyện bố con, Ngũ đổ tường, Thứ Ba béo, Quán rượu nửa đêm, Thị trấn Chula Vista, Chợ trời Dandenon…Nguyễn Thị Khánh Liên viết về cả một làng đầy nước mắt vì sinh con dị tật, vì cá chết (truyện truyện Lời nguyện cầu cho biển)…

Tính hiện đại còn ở sự thể hiện những tư tưởng hiện đại. Nhà văn Công giáo chống lại tư tưởng thực dụng, chống lại chủ nghĩa cá nhân vị kỳ, chống lại nền văn hóa sự chết và chủ nghĩa thế tục (chủ nghĩa sex, văn học đồi trụy với những tư tưởng độc hại: tình, tiền, tù, tự tử, bạo lực…). Nhà văn Công giáo thể hiện tình yêu thương con người dưới ánh sáng Tin Mừng, đem cái nhìn lạc quan của Tin Mừng vào những hoàn cảnh bi kịch…

5. Hội nhập với văn chương dân tộc.

Đã từ rất lâu, (ít nhất là từ 1945 đến 1975) các tác phẩm văn học Công giáo vắng bóng trên văn đàn. Dòng chảy văn học chính thống là văn học Cách mạng và kháng chiến, văn học xây dựng chủ nghĩa xã hội (ở miền Bắc những năm 1955-1965); văn học chiến tranh, văn học hiện sinh ở miền Nam. Thời đổi mới (1986-1996) là những tác phẩm Nhân văn và dân chủ sau đó là sự xuất hiện của “văn chương thị trường” đầy dẫy truyện ngôn tình, truyện sex, truyện đồng tính, truyện vụ án…Chỉ những năm sau này yếu tố tôn giáo mới xuất hiện trong văn chương Việt [[16]].

Các tác phẩm văn xuôi Công giáo của Song Nguyễn, Lm Nguyễn Trung Tây, Lm Cao Gia An, Nguyễn Thị Khánh Liên, Nguyễn Văn Học, Nguyễn Phương Thảo, Vinh Kiu đã được in và phát hành. Tuy chưa có tác phẩm nào trở thành một hiện tượng văn học, song sự xuất hiện của những tác phẩm văn học Công giáo bước đầu là tín hiệu mở ra con đường hội nhập của văn học Công giáo với văn học dân tộc.

Có một thực tế là số lượng tác phẩm truyện dài Công giáo còn rất ít ỏi. Nguyên nhân là do đâu? Hiển nhiên là số nhà văn người Công giáo viết truyện thế tục có thể là nhiều (như giới thiệu của Lê Đình Bảng, Nguyễn Vy Khanh) song tại sao họ không viết truyện dài Công giáo? Câu trả lời có thể là xã hội còn nhiều định kiến với tôn giáo, tác phẩm văn học Công giáo chưa có sự công bằng với tác phẩm thế tục. Và lý do chính là không có độc giả. Ngày nay các hình thức giải trí đa phương tiện chiếm hết thị phần, ngay cả sách văn học đích thực có giá trị cũng khó cạnh tranh thì tác phẩm văn học Công giáo làm sao chen chân. Trước kia Lệ Hằng viết Tóc Mây (1970), một truyện tình giữa Cha Duy và cô nữ sinh viên Tố Kim, tác giả Đường Phượng Bay viết tiểu thuyết Mây Vẫn Nhớ Ngàn (1984), một chuyện tình giữa Cha Thảo và cô y tá tên Nga, những tác phẩm ấy viết theo mốt thời thượng câu khách, còn ngày nay những tác phẩm như thế không thể tồn tại.

Chúng ta còn cần nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật như Quo Vadis của Henryk Sienkiewicz hay Gitanjali (Lời Dâng) của R. Tagore. Điều này trông nhờ vào các cây bút trẻ hôm nay.

NHÌN VỀ TƯƠNG LAI

So với thơ, văn xuôi Công giáo hiện nay có rất ít tác giả và tác phẩm. Thực sự chưa có tác phẩm lớn. Có lẽ còn phải chờ lâu nữa mới có những tác phẩm có giá trị độc đáo về tư tưởng và nghệ thuật đáp ứng yêu cầu mục vụ văn hóa của Giáo hội.

Đức Giáo hoàng Gioan Phao Lô II đặt niềm tin vào giới văn nghệ sĩ Công giáo trong sứ mệnh loan báo Tin Mừng. Ngài chia sẻ: “Để truyền đạt sứ điệp mà Đức Kitô đã giao cho mình, Giáo Hội cần đến nghệ thuật. Nghệ thuật có nhiệm vụ là làm cho thế giới tinh thần, thế giới vô hình, thế giới Thiên Chúa trở nên có thể cảm nhận được và trở nên hấp dẫn càng nhiều càng hay”(Thư gửi nghệ sĩ năm 1999 của Đức Gioan Phao Lô II)

            Nhà văn Công giáo có thể học Thầy Giêsu viết những tác phẩm có giá trị vĩnh cửu như những dụ ngôn của Chúa trong Kinh thánh, và học tập cách trình thuật sống động của các thánh sử khi viết Kinh thánh,  bởi Kinh thánh là những tác phẩm văn chương bất hủ của nhân loại.

Tháng 4/ 2022

(Tác giả giữ bản quyền)

 


[1] Lê Đình Bảng, Văn học Công giáo Việt Nam-những chặng đường, tử trang 300 đến 313 liệt kê tác phẩm văn học Công giáo.

[2] Đinh Thị Oanh-Khái lược Nam Kỳ Địa Phận

https://dongtrinhvuongsaigon.org/vi/news/sach-hay/tuan-bao-nam-ky-dia-phan-916.html)

[3] Nguyễn Vy Khanh-Đôi nét về văn học Công giáo Việt Nam

https://sites.google.com/site/nguyenvykhanhca/tuy%E1%BB%83n-t%E1%BA%ADp/%C4%91%C3%B4i-n%C3%A9t-v%E1%BB%81-v%C4%83n-h%E1%BB%8Dc-c%C3%B4ng-gi%C3%A1o-vi%E1%BB%87t-nam

[4] Đặng Tiến-Nhà văn Thảo Trường

http://www.art2all.net/tho/dangtien/dt_thaotruong2.htm

[5] Đăng Huỳnh: Nhà văn 83 tuổi kể chuyện “Biến khỏi thành phố”

https://baocantho.com.vn/nha-van-83-tuoi-ke-chuyen-bien-khoi-thanh-pho–a118238.html

[6] Xin đọc: Bùi Công Thuấn-Tiếp cận thế giới nghệ thuật của Song Nguyễn. Nxb HNV 2014, tái bản 2019.

Bạn có thể download nội dung sách theo link: https://www.mediafire.com/file/2e2fqds8l4nemok/NỘI+DUNG+SÁCH+TIẾP+CẬN+THẾ+GIỚI+NGHỆ+THUẬT+CỦA+SONG+NGUYỄN.rar/file

[7] Mẹ, Mẹ tôi: https://vvnm.vietbao.com/a247520/me-me-toi

[8] Bùi Công Thuấn-Truyện ngắn Nguyễn Trung Tây-Truyền thống và hiện đại

https://www.vanthoconggiao.net/2021/11/khuon-mat-van-chuong-cong-giao-uong-ai.html

[9] Bùi Công Thuấn- Bên ngoài cổng nhà thờ:

https://buicongthuan.wordpress.com/2017/12/10/ben-ngoai-cong-nha-tho-lm-cao-gia-an/

[10] Bùi Công Thuấn-Nguyễn Thị Khánh Liên và những sáng tạo nghệ thuật

https://www.vanthoconggiao.net/2022/03/gioi-thieu-van-hoc-cong-giao-uong-ai_01826304235.html

[11] Bùi Công Thuấn-Nhà văn Nguyễn Văn Học & Những truyện ngắn có yếu tố Ki tô giáo

https://buicongthuan.wordpress.com/2022/04/11/nha-van-nguyen-van-hoc-nhung-truyen-ngan-co-yeu-to-kito-giao/

[12] Trò chuyện với Teresa Nguyễn Phương Thảo (Canada)

https://www.vanthoconggiao.net/2017/11/tro-chuyen-cung-tac-gia-at-giai-nhat.html

[13] Bùi Công Thuấn-Văn học Công giáo giáo phận Quy Nhơn

https://www.vanthoconggiao.net/2022/01/gioi-thieu-van-hoc-cong-giao-uong-ai_0907558068.html

[14] Bùi Công Thuấn-Văn học Công giáo-giáo phận Xuân Lộc

https://www.vanthoconggiao.net/2022/02/gioi-thieu-van-hoc-cong-giao-uong-ai.html

[15] Xin đọc:

Bùi Công Thuấn-Tư tưởng Mỹ học Ki tô giáo và văn học nghệ thuật Công giáo

Tư tưởng Mỹ học Kitô Giáo Và Văn học nghệ thuật Công giáo – Bùi Công Thuấn

Bùi Công Thuấn-Văn học nghệ thuât Ki tô giáo và những lời dạy của giáo hội

https://www.vanthoconggiao.net/2022/04/van-hoc-nghe-thuat-kito-giao-va-nhung.html

[16] Lê Dục Tú-Cảm quan tôn giáo trong văn xuôi Việt Nam đương đại

http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c308/n15822/Cam-quan-ton-giao-trong-van-xuoi-Viet-Nam-duong-dai.html

Loading

Đánh giá bài viết

4 những suy nghĩ trên “VĂN XUÔI CÔNG GIÁO ĐƯƠNG ĐẠI-Nhận dạng

Bình luận đã được đóng lại.

call Hotline 1 0798287075 call Hotline 2 0798 287 075 facebook Fanpage Chat FB zalo Chat Zalo youtube Youtube Tiktok Tiktok