ALEXANDRE DE RHODES & Những vấn đề lịch sử

ALEXANDRE DE RHODES & Những vấn đề lịch sử

 

Bùi Công Thuấn

***

(bìa tự điển Việt-Bồ-La)

 

Trong chuyên luận “Lịch sử truyền giáo và chữ Quốc ngữ”, viết về Alexandre de Rhodes (Chương 5, phần IV), tháng 8 năm 2024[[1]] Thụy Khuê đã  kết luận: “chúng ta chưa nghiên cứu đến nơi đến chốn ba vấn đề mấu chốt, liên quan mật thiết với nhau là việc truyền giáoviệc thành lập chữ quốc ngữ, và việc đánh chiếm thuộc địamà de Rhodes đều ghóp phần vào. Ba vấn đề này từ trước đến nay vẫn được tách rời, coi như không dính dáng gì với  nhau. Thực ra, có liên hệ chặt chẽ”.

NHỮNG VẤN ĐỀ TRANH CÃI VỀ A. RHODES

Thực ra 2 vấn để gây tranh cãi nhiều nhất là: Rhodes có phải là ông tổ sáng lập Chữ Quốc ngữ hay không, và, Rhodes liên quan thế nào đến việc thực dân Pháp xâm lược Việt Nam?

Vấn đề thứ nhất đến nay nhiều công trình nghiên cứu đã làm sáng tỏ. Thụy Khuê khẳng định: “đến năm 1972, linh mục Đỗ Quang Chính, cho in cuốn sách Lịch sử chữ quốc ngữ 1620-1659 (Tủ sách Ra Khơi, Sài Gòn, 1972), … trình bày những tư liệu viết tay tìm thấy trong các thư viện Công giáo Âu, Á để chứng minh rằng de Rhodes không phải là người khai sinh ra chữ quốc ngữ”[đd].

Các nhà nghiên cứu như TS-Lm Roland Jacques (năm 2004)[[2]] và TS Phạm Thị Kiều Ly (năm 2018)[[3]] và nhiều nhà nghiên cứu khác đã khẳng định việc hình thành chữ Quốc ngữ là công trình tập thể của các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha và Ý[[4]], với sự trợ giúp của các giáo dân Việt Nam. Trong số những giáo sĩ ấy, Lm Francisco de Pina được coi là người khởi đầu. Rhodes góp sức hoàn thiện chữ Quốc ngữ khi in Phép giảng tám ngày (Catechismus-nhà in Bộ Truyền giáo Roma năm 1651) và Từ điển Việt-Bồ-La (Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum-ấn hành tại Roma năm 1651).

Trong Lời nói đầu của cuốn “Từ Ðiển Việt – Bồ – La”, Rhodes nói rõ về công trình cùa những người đi trước ông:

“…Tuy nhiên trong công việc nầy (học chữ Quốc ngữ, B.K.) ngoài những điều mà tôi đã học được nhờ chính người bản xứ trong suốt gần mười hai năm thời gian mà tôi lưu trú tại hai xứ Cô-sinh và Đông-kinh, thì ngay từ đầu tôi đã học với cha Francisco de Pina người Bồ Đào, thuộc hội dòng Giê-su rất nhỏ bé chúng tôi, là thầy dạy tiếng, người thứ nhất trong chúng tôi rất am tường tiếng nầy, và cũng là người thứ nhất bắt đầu giảng thuyết bằng phương ngữ đó mà không dùng thông ngôn, tôi cũng sử dụng những công trình của nhiều Cha khác cùng một Hội Dòng, nhất là của Cha Gaspa de Amaral và Cha Antonio Barbosa, cả hai ông đều đã biên soạn mỗi ông một cuốn từ điển: ông trước bắt đầu từ tiếng An Nam, ông sau bằng tiếng Bồ – đào-nha, nhưng cả hai ông đều đã chết sớm. Sử dụng công khó của hai ông, tôi còn thêm tiếng La – tinh theo lệnh Hồng y rất đáng tôn, vì ngoài những tiện lợi khác, nó còn giúp ích cho người bản xứ học tiếng La tinh …”[[5]].

Rhodes cũng tường thuật lại việc học tiếng Việt của mình:

Thế là năm 1624, bề trên phái cha Mathêu Mattos, trước kia ở Rôma làm quản thủ các tỉnh dòng, đến thăm việc truyền giáo ở Đàng Trong, cùng với năm bạn đồng sự người Au, trong số đó tôi hân hạnh là người thứ năm và một người Nhật thông thạo chữ Hán. Chúng tôi khởi hành từ Macao vào tháng 10 năm 1624 và sau mười chín ngày thì tới Đàng Trong, tất cả đều hồ hởi bởi hoạt động tốt. Ở đó chúng tôi gặp cha Pina, ngài rất thông tạo tiếng xứ này, một thứ tiếng khác hẳn tiếng Tàu. Tiếng mới này còn thông dụng ở Đàng Ngoài, ở Cao Bằng, ở Đàng Trong và người ta còn nghe và hiểu ở ba xứ lân bang khác.

Đối với tôi, thú thật vừa tới Đàng Trong và nghe dân xứ này nói, nhất là phụ nữ, tôi tưởng như nghe chim hót và tôi không bao giờ mong có thể học được. Hết các tiếng đều độc vận và chỉ phân biệt ý do nhiều giọng nói khác nhau. Một chữ như “đại” chẳng hạn, có tới hai mươi ba nghĩa hoàn toàn khác nhau, do cách đọc khác nhau, vì thế khi nói thì như ca như hát. Tôi đã đề cập tới nhiều hơn trong cuốn Lịch sử Đàng Ngoài. Căn cứ vào đó thì thấy học thứ ngôn ngữ này không phải là dễ. Vì thế mà tôi thấy cha Fernandez và cha Buzomi phải dùng thông ngôn để giảng, chỉ có cha Francois de Pina không cần thông ngôn vì nói rất thạo. Tôi nhận thấy bài ngài giảng có ích nhiều hơn bài các vị khác.

Điều này khiến tôi tận tuỵ học hỏi, tuy vất vả, thế nhưng khó ít mà lợi nhiều. Tôi liền chuyên chú vào việc. Mỗi ngày tôi học một bài và siêng năng như khi xưa vùi đầu vào khoa thần học ở Rôma. Chúa đã cho tôi trong bốn tháng tôi đủ khả năng để ngồi tòa giải tội và trong sáu tháng tôi đã giảng được bằng ngôn ngữ Đàng Trong và cứ thế tôi tiếp tục trong nhiều năm. Tôi khuyên tất cả các vị nhiệt tâm muốn tới những tỉnh dòng chúng tôi để chinh phục các linh hồn, thì nên chuyên cần ngay từ buổi đầu. Tôi cả quyết rằng hiệu quả của việc trình bày các mầu nhiệm trong ngôn ngữ của họ thì vô cùng lớn lao hơn khi giảng bằng thông ngôn: thông ngôn chỉ nói điều mình dịch chứ không sao nói với hiệu lực của lời từ miệng nhà truyền đạo có Thánh Thần ban sinh khí.

Người giúp tôi đắc lực là một cậu bé người xứ này. Trong ba tuần lễ đã dạy tôi các dấu khác nhau và cách đọc hết các tiếng. Cậu không hiểu tiếng tôi mà tôi thì chưa biết tiếng cậu, thế nhưng, cậu có trí thông minh biết những điều tôi muốn nói. Và thực thế, cũng trong ba tuần lễ, cậu học các chữ của chúng ta, học viết và học giúp lễ nữa. Tôi sửng sốt thấy trí thông minh của cậu bé và trí nhớ chắc chắn của cậu. Từ đó cậu đã làm thầy giảng giúp các cha. Cậu đã là một dụng cụ rất tốt để tôn thờ”.[[6]].

Phần đóng góp của Rhodes đối với tự điển “Việt-Bồ-La” là rất giá trị. TS Trần Quốc Anh cho biết: “Phần đóng góp của Rhodes là tổng hợp hai cuốn từ điển của hai vị người Bồ, dịch phần Latin, và viết phần giới thiệu về thanh điệu và ngữ pháp tiếng Việt” [x.4 đd]. TS Phạm Thị Kiều Ly nhận định: “Việc in từ điển này có ý nghĩa rất lớn: giúp thống nhất chính tả, là công cụ học hữu hiệu cho các giáo sĩ khi đi truyền giáo và hơn nữa đây còn như một cuốn từ điển giải thích phong tục tập quán của người An Nam thời đó”[đd].

***

Vấn đề thứ hai, Alexsandre de Rhodes can hệ với việc Pháp xâm lược Việt Nam thế nào?

Có hai luồng ý kiến trái chiều, một bộ phận các nhà nghiên cứu khẳng định Rhodes có can dự vào việc Pháp xâm lược Việt Nam, và một bộ phận khác phủ định điều này.

Xin đơn cử vài tác giả đã kết tội Rhodes:

THỤY KHUÊ

Nhà nghiên cứu Thụy Khuê ở Pháp, trong chuyên luận “Lịch sử truyền giáo và chữ Quốc ngữ”, đã viết 4 bài dài về Alexandre de Rhodes. Nhan đề các bài như sau:

I.De Rhodes, người dẫn đường.

II.De Rhodes đến Đại Việt.

III. Chuyện André  Phú Yên tử đạo.

IV.Thư xin triều đình Pháp chinh phục phương Đông

            Thụy Khuê dẫn lời Linh mục Cadière viết: “Cha de Rhodes không chỉ là người Pháp đầu tiên đã nhìn thấy Huế xưa, ông còn là người dẫn chúng ta tới xứ này». Bà phê phán việc Cadière tôn vinh Rhodes, và kết luận: “Tóm lại trong những điều học giả Cadière vinh thăng “học giả” de Rhodes, chỉ có câu này là đúng: “Ông là người đã đưa chúng ta [người Pháp] đến xứ này”.

Trong cách nói lấp lửng ấy của Thụy Khuê, có hàm ý: Rhodes là người dẫn thực dân Pháp đến xâm lược Việt Nam. Bốn bài viết của Thuỵ Khuê tập trung vào tư tưởng này.

Riêng bài IV, bà đã dẫn 3 lá thư “cầu xin triều đình Pháp chinh phục phương Đông” của Rhodes, như một minh chứng cụ thể nhất ý đồ của Rhodes.

Ba lá thư này in làm Tựa sách:

– Thư gửi Pháp Hoàng Louis XIV, cũng là bài Tựa sách Histoire du Royaume du Tonkin (Lịch sử Vương quốc Đàng Ngoài), bản tiếng Pháp, in ở Lyon, năm 1651.

– Thư gửi quan Chưởng Ấn Pháp,  bài Tựa cuốn La glorieuse mort d’André (Cái chết vinh hiển của André), bản tiếng Pháp in ở Paris năm 1653.

– Thư gửi hoàng hậu Anne d’Autriche, bài Tựa cuốn Divers Voyages et Missions (Nhiều chuyến Du hành và Truyền giáo), in ở Paris năm 1653”.[[7]]

Thuỵ Khuê dẫn giải: “ba bức thư này không viết để gửi riêng cho ba nhân vật chính trong triều đình, mà còn để gửi cho cả dân tộc và độc giả tiếng Pháp ở năm châu.

“Khi dịch sách của de Rhodes, Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên đã bỏ qua, không dịch hai bài Tựa, là thư gửi vua Louis XIV (tựa sách Histoire du Royaume du Tonkin) và thư gửi mẫu hậu Anne d’Autriche (Divers Voyages et Missions)”

Thụy Khuê gọi cách dịch như thế là “cách dịch “gian dối” của Hồng Nhuệ”.

Thực chất của vấn đề là: ba lá thư ấy không gửi trực tiếp cho các đối tượng mà chỉ được in làm tựa sách. Thụy Khuê cũng không cho biết phản ứng của vua Louis XIV, hoàng hậu Anne d’Autriche và quan Chưởng Ấn Pháp đối với 3 lá thư đó như thế nào. Như vậy người gửi và người nhận không có tương tác gì. Những lá thư ấy cũng không đem đến hiệu quả thực tế nào, có chăng chỉ để “làm sang” cho cuốn sách (vì mượn hơi hướng của “người sang” làm lời tựa). Nếu đó là những bản “điều trần” Rhodes gửi trực tiếp và được Vua Louis XIV, hoàng hậu và quan Chưởng Ấn, được quan tâm, hồi đáp, thì vấn đề sẽ khác.

Cho nên những kết luận của Thụy Khuê chỉ là võ đoán, cảm tính, chủ quan và đầy thiên kiến. Thụy Khuê đã phải công nhận thực tế này là: “de Rhodes không trực tiếp xin Louis XIV đem quân đi đánh chiếm thuộc địa”; “việc chinh phục Đàng Ngoài và Đàng Trong mà de Rhodes cầu xin Pháp hoàng, đã bị bỏ qua, bởi vì Louis XIV đã có các địa chỉ mới hấp dẫn hơn, đặc biệt Ần Độ «đầy vàng bạc châu báu». Louis XV kế nghiệp, lơ là với việc đánh chiếm thuộc địa của cha ông”[[8]].

Sau khi Rhodes đi Roma, chẳng có người lính Pháp nào (Plusieurs soldat) được gửi đến Việt Nam để chinh phục tất cả phương Đông. Hội Thừa Sai Hải ngoại Paris (MEP) đã gửi Giám mục François Pallu và Giám mục Lambert de la Motte là những thừa sai đầu tiên đến truyền giáo tại vùng Viễn Đông.

a.Quyết tâm muốn Gia Tô hóa phương Đông bằng võ lực” của Rhodes.

Trước hết, Thụy Khuê chỉ ra mục đích viết của Rhodes:

«Từ khi tôi trở về châu Âu, tôi cho in ở Rome, nhờ ơn các Đức ông trong Hội Truyền Giáo, một cuốn tự điển tiếng cochinchinois [tức là ấn-hoa, chỉ Việt Nam], La tinh và Bồ Đào Nha, một cuốn văn phạm và một cuốn sách dạy giáo lý [“Phép giảng tám ngày”] chứa đựng phương pháp mà chúng tôi dùng để giảng những bí kíp của chúng ta cho bọn ngoại đạo; những sách này có thể hữu ích cho những ai muốn đến giúp chúng tôi giảng đạo Chúa Ki-tô bằng thứ tiếng cho tới nay chỉ dùng để tôn thờ ma quỷ».

Thụy Khuê bình luận: “Câu này trình bày rất rõ chủ ý của ông: sách in cho những ai muốn giúp việc truyền đạo, bằng thứ tiếng cho tới nay chỉ dùng để tôn thờ ma quỷ”.

Thụy Khuê kết luận: “Vậy các sách ông soạn ra, không hề có ý cho người Việt học chữ quốc ngữ như nhiều người lầm tưởng”.

b.Thư gửi Pháp hoàng Louis XIV 1651:

Rhodes viết:

“Thần cầu Thượng Đế, đã ban Hoàng thượng (cho nước Pháp) với những lời hứa nhiệt thành sẽ biến đổi Đông phương dưới triều Hoàng thượng thành một Miền Nam nước Pháp”.

Thụy Khuê bình văn của Rhodes:

Câu này hoàn toàn ăn khớp với những điều Pháp đã thực hiện: Chiếm xong Canada, nước này trở thành Nước Pháp Mới (La Nouvelle France) và «nếu» chiếm được Đông phương (Đại Việt), thì nước này sẽ trở thành miền Nam nước Pháp (un Midi).

Với cách hành văn hoa mỹ và khôn khéo, de Rhodes không trực tiếp xin Louis XIV đem quân đi đánh chiếm thuộc địa, nhưng ông dùng Thượng đế (Dieu) và Chúa Cứu Thế (le Sauveur) làm chủ tể quyết định mọi việc: Chúa Cứu Thế thu hoạch nhiều vùng đất mới bằng công sức của máu và Phúc Âm và Thượng đế biến đổi phương Đông thành miền Nam nước Pháp, đúng là giọng một thầy tu”.

Thụy Khuê bình luận: “Nhưng Thượng đế và Chúa Cứu Thế ở đây thực ra chỉ là vua Pháp trá hình, cũng như phương Đông thực chất là Đàng Trong và Đàng Ngoài, tức là Đại Việt”.

Thụy Khuê kết luận: “Lá thưcuốn sách và bản đồ chứng minh Alexandre de Rhodes là người tiên phong tâu xin Pháp hoàng chinh phục nước Việt, với bản đồ dẫn đường, vì thế ông đã được người Pháp mọi thời tìm cách ca tụng”.

  1. Thư gửi quan Chưởng Ấn Pháp

Thụy Khuê giới thiệu chủ đề lá thư:

Lá thư rất dài, lời lẽ hoa mỹ, de Rhodes thuật lại chuyện André tử đạo để giữ trọn Đức Tin và cầu xin Đức Giám Mục Pierre Séguier can thiệp, để chấm dứt những bạo tàn này… Cuối cùng, ông thuyết phục Đức Giám Mục, nên vượt qua những vị tiền nhân lỗi lạc, dùng quyền lực và uy tín của mình để đưa nước Pháp lên địa vị hàng đầu thế giới bằng công cuộc chinh phục thế giới theo đạo Thiên Chúa.”[chữ in đậm là của Thụy Khuê].

Thụy Khuê trích và dịch đoạn thư của Rhodes:

(xin lưu ý: chữ in đậm, và chữ trong ngoặc […] là của Thụy Khuê)

“Kính Thưa Đức Ông,

Ngài hết lòng phụng sự đức Vua đến độ không bao giờ bỏ quên Thượng đế, và trong lúc ngài tìm vinh quang cho vua, bình yên cho nước Pháp, nguyện vọng đầu tiên của ngài là làm sao cho chúa Giê-Su ngự trị trên tất cả các Vương triều trên thế giới.

Ngày ngày ngài nghĩ cách mở rộng Giáo hội [Pháp] là di sản của Vua Cha [Louis XIII] để lại cho Hoàng đế [Louis XIV] và ngài không thể có nguyện vọng nào mãnh liệt hơn là thấy Phúc Âm được nhìn nhận ở tất cả các vùng đất có Mặt trời soi tỏ. Ngài đem sự bảo trợ ra hải ngoại [cho giáo sĩ] và làm cho họ cảm thấy ân huệ của ngài; họ là những con người không sợ bão tố, không sợ đắm chìm, không sợ chết, cốt đem Chúa đến với những dân tộc tới nay chỉ biết tôn thờ ma quỷ.

Ngài bỏ bao công lao để giúp họ thực hiện mục đích và xin ngài đừng quên rằng nước Pháp sẽ chỉ là nước Thiên Chúa giáo hiển vinh nhất, khi đã góp phần hoàn tất việc thế giới hóa Thiên chúa giáo“.

Thụy Khuê bình đoạn văn trên như sau:

“Đoạn này tóm tắt tư tưởng chủ yếu của de Rhodes: Tuy chỉ xin quan Chưởng Ấn bảo trợ cho các «giáo sĩ đi chinh phục bằng Phúc âm», nhưng ai cũng hiểu: chính quyền Pháp của hai vua Louis XIII và XIV, dưới sự quản trị của hai vị Hồng y lừng danh Richelieu và Mazarin, không gửi giáo sĩ đi chiếm đất bằng Phúc âm, mà chỉ gửi chiến thuyền, quân đội và vũ khí. Vì vậy, khi de Rhodes thuyết phục vị Giám mục Chưởng ấn, người có quyền lực nhất nước Pháp lúc bấy giờ đi «bảo trợ các giáo sĩ ở hải ngoại» có nghiã là cất quân chinh phục phương Đông, để nước Pháp góp phần hoàn tất việc Gia-Tô hóa thế giới”. 

Đoạn “bình văn” này thực chất là “tán” ngoài văn bản, lộ rõ sự yếu kém của Thụy Khuê trong việc vận dụng phương pháp phê bình văn học đương đại để “giải mã” những tín hiệu ngôn ngữ. Thụy Khuê cũng nói thẳng tư tưởng của mình về Rhode. Bà chụp mũ, xuyên tạc trắng trợn lời của Rhodes: “không gửi giáo sĩ đi chiếm đất bằng Phúc âm, mà chỉ gửi chiến thuyền, quân đội và vũ khí”. Trong cách viết, Thụy Khuê không sử dụng Phương pháp lịch sử, không tôn trọng những nguyên tắc của khoa học lịch sử mà cố ý “diễn giải” sai lệch, chủ quan (xin đọc chữ: “ai cũng hiểu”; “có nghiã là”). Đó không phải là thái độ trí thức của nhà nghiên cứu lịch sử.

d.. “Du hành và truyền giáo”.

Thụy Khuê tiếp tục chứng minh “Quyết tâm muốn Gia Tô hóa phương Đông bằng võ lực của de Rhodes”. Bà trích dẫn sách Du hành và truyền giáo  (Divers voyages et missions):

“De Rhodes viết:

«Ngay khi về tới [Roma] tôi bắt đầu cho mọi nơi trong thành phố lớn này biết quyết tâm đã khiến tôi từ địa đầu trái đất về đây, tôi may mắn được hầu chuyện nhiều lần Đức Thánh Cha, người tỏ ý muốn giúp đỡ chúng tôi; hàng ngày tôi tới gõ cửa các đức Hồng y, để nói về những vùng giáo dân mới đang ngửa tay xin các vị [dẫn dắt họ] đường lên thiên đàng; tôi đã phải ở lại ba năm, tham dự ba Thánh bộ hội (congrégationes générales), giải quyết việc các xứ của chúng tôi (nos royaumes, ý nói Đàng Trong và Đàng Ngoài) cứ muốn xin giám mục và giáo sĩ, để ngăn chặn không cho bao người bị đọa đầy. […]

Tôi tin rằng nước Pháp, là vương quốc mộ đạo nhất thế giới, sẽ cung cấp cho tôi nhiều BINH LÍNH đi chinh phục tất cả phương Đông, để bắt chúng phải theo chúa Giê-su (J’ai cru que la France, étant le plus pieux royaume du monde, me fournirait PLUSIEURS SOLDAT qui aillent à la conquête de tout l’Orient, pour l’assujettir à Jésus-Christ) và đặc biệt tôi sẽ tìm thấy phương tiện để có những giám mục, làm cha làm thầy chúng tôi, tại các giáo hội Công giáo này [ở Pháp]; ngày 11-9-1652, tôi rời Rome với quyết tâm đó, sau khi hôn chân đức Giáo hoàng.» (Du hành và truyền giáo, trang 435-436 )

Thụy Khuê kết luận: Quyết tâm muốn Gia Tô hóa phương Đông bằng võ lực của de Rhodes được thể hiện rõ trong câu này[[9]].

Bà giải thích chữ Soldats: phải dịch là binh lính hay binh sĩ, vì không có chữ nào khác.

***

Có thể tóm tắt tư tưởng của Thụy Khuê về Rhodes như sau:

1.“… các sách ông soạn ra, không hề có ý cho người Việt học chữ quốc ngữ như nhiều người lầm tưởng”. Kết luận này của hụy Khuê sai với Lời nói đầu của Rhodes trong tự điển Việt-Bồ-la (đã trích ở trên)

2.Thụy Khuê nỗ lực chứng minh Rhodes là người dẫn đường cho thực dân Pháp đến xâm lược Việt Nam. Rhodes có “Quyết tâm muốn Gia Tô hóa phương Đông bằng võ lực” khi gửi 3 lá thư cho vua và hoàng hậu nước Pháp, gửi cho Chưởng ấn. Nhưng mọi nỗi lực kết tội Rhodes của bà đều trái với thực tế: Bà kết luận về việc Rhodes xin vua Pháp gửi binh lính sang Đại Việt “Nhưng việc chinh phục Đàng Ngoài và Đàng Trong mà de Rhodes cầu xin Pháp hoàng, đã bị bỏ qua, bởi vì Louis XIV đã có các địa chỉ mới hấp dẫn hơn, đặc biệt Ần Độ «đầy vàng bạc châu báu». Louis XV kế nghiệp, lơ là với việc đánh chiếm thuộc địa của cha ông”.

 Việc bà bám vào chữ Soldats trong câu “J’ai cru que la France, étant le plus pieux royaume du monde, me fournirait plusieurs soldats qui aillent à la conquête de tout l’Orient, pour l’assujettir à Jésus-Christ”( Divers voyages et missions) để chứng minh Rhodes xin vua Pháp gửi binh lính sang chinh phục Đại Việt cũng không đúng với thực tế, bởi vì sau khi Rhodes về Rôma, đã không có người lính nào được gửi qua Việt Nam. Chỉ có hai Giám mục François Pallu (1626-1684) và Lambert de la Motte (1624–1679) được Hội Thừa Sai Hải ngoại Paris (MEP) gửi đến truyền giáo tại vùng Viễn Đông. Cả Rhodes (1593-1660) và hai Giám mục François Pallu và Lambert de la Motte đều sống cách xa gần 200 năm khi Pháp xâm lược Việt Nam (1858).

  1. Cách viết của Thụy Khuê có vẻ là khoa học khi bà trích dẫn nhiều tư liệu. Bà có ưu thế sinh sống ở Pháp nên việc tìm tư liệu ở Paris, Roma, Lisbonne..có nhiều thuận lợi.

Tuy nhiên cách khai thác, phân tích các dữ liệu này không đúng với yêu cầu của phương pháp nghiên cứu lịch sử nên dẫn đến kết luận không đủ sức thuyết phục, đặc biệt là cách “bình văn”, cách “giải mã” văn bản bằng phương pháp suy diễn, cảm tính chủ quan và thiên kiến dẫn đến các kết luận sai với thực tế lịch sử, khiến cho công phu viết lách của bà trở nên vô giá trị (ngoài một ít tư liệu).

BÙI KHA

Tôi không tìm thấy dòng nào về tiểu sử Bùi Kha trên mạng xã hội, cả các trang ông đăng nhiều bài là: tongiaovadantoc.com, sachhiem.net/BUIKHA, thuvienhoasen; quangduc.com, giaodiemonline. Tôi chỉ tìm được vài dòng: Tác giả Bùi Kha, người Quảng Trị du học tại Mỹ quốc tháng 6, 1974. Ông hiện sống tại bang California, USA. Thực tế là một clip trên Youtube ghi hình căn nhà ông đang sống ở Sài gòn.

Cảm quan của Bùi Kha cùng với nhóm “sachhiem” trong những bài viết về Công giáo là sự phê phán và phủ định. Những sử liệu ông dùng làm dẫn chứng được suy diễn chủ quan, điều này không đúng với nguyên tắc của nhà nghiên cứu lịch sử. Chẳng hạn, để giải thích chữ Chữ “soldats” là binh lính, hầu chứng minh mối quan hệ của Rhodes với việc xâm lược của Pháp, ông đưa cả cái gọi là “Lời thề dòng Tên”(The Jesuit Oath) vào đối thoại với GS Chương Thâu. Bùi Kha không biết cái gọi là “Lời thề dòng Tên” mà ông lấy trên mạng xã hội ấy là giả [[10]].

Những bài viết chính của ông về Alexandre de Rhodes in trong tiểu luận: Alexandre de Rhodes và vấn đề chữ Quốc ngữ, Nxb HNV 11/ 2019. Gồm các bài viết:[[11]]

Lời nói đầu

Bài 1: Trao đổi với GS. Chương Thâu

Bài 2: Trao đổi với tác giả Hoàng Hưng

Bài 3: Trao đổi với ông Nguyễn Đình Đầu, Phạm Quang Tuấn và Phong Uyên

Bài 4: Alexandre de Rhodes và chữ Quốc ngữ

Bài 5: Trao đổi với ông Nguyễn Đình Đầu

Bài 6: Lại trao đổi với ông Nguyễn Đình Đầu

Bài 7: Trao đổi với.TS. Hà Đình Đức

Bài 8: Alexandre de Rhodes, chữ Quốc ngữ và quan điểm chính trị

Phụ Lục: Các bài khác đã đăng trước

 

Hai vấn đề chính ông quan tâm trao đổi là: Alexandre de Rhodes không phải là người

sáng lập chữ Quốc ngữ và vấn đề “Những hoạt động của linh mục A. de Rhodes, có liên hệ (hay không) đến vấn đề chính trị, để tạo thành nhân tố chính ban đầu, cho Pháp xâm chiếm Việt Nam”

            Để chứng minh Rhodes không phải là người sáng lập chữ Quốc ngữ, ông trích dẫn lời mở đầu tự điển Việt-Bồ-La của Rhodes.

            Để chứng minh Rhodes “vận động Pháp xâm chiếm và đô hộ nước ta” Bùi Kha trích dẫn “Hành trình và truyền giáo”, đoạn văn:“J’ai cru que la France, étant le plus pieux royaume de monde, me fournirait plusieurs soldats qui aillent à la conquête de tout l’Orient, pour l’assujetter à Jésus Christ, et particulièrement que j’y trouverais moyen d’avoir des Évêques, qui fussent nos Pères et nos Maitres en ces Églises. Je suis soirti de Rome à ce dessein le 11e Septembre de l’année 1652 après avois baisé les pieds du Pape”.

Dịch nghĩa là: “Tôi tưởng nước Pháp là một nước đạo đức nhất thế giới, nước Pháp có thể cung cấp cho tôi mấy chiến sĩ (plusieurs soldats) đi chinh phục toàn cõi Đông phương (la conquête de tout l’Orient), đưa về qui phục Chúa Kitô và nhất là tôi sẽ tìm được các giám mục, cha chúng tôi và thầy chúng tôi trong các giáo đoàn. Với ý đó, tôi rời bỏ Rôma ngày 11 tháng 9 năm 1652 sau khi tới hôn chân Đức Giáo hoàng” (Bản dịch của Hồng Nhuệ, gần cuối tr. 263, sách đã dẫn).

Ông vất vả giải thích: “cụm từ Plusieurs soldats  phải được dịch là nhiều binh lính. Và cụm từ La conquête de tout l’Orient  Chinh phục cõi phương Đông”.

Để tăng cường thêm luận cứ, Bùi Kha xem xét hoạt động của Rhodes rồi kết luận:

Linh Mục A. de Rhodes (Đắc Lộ) đã vào trong triều đình, gặp bà hoàng hậu vua Luis thứ IV, xin giúp nhiều lính chiến (plusieurs soldats) để chinh phục toàn cõi Đông Phương (la conquête de tout l’Orient), trong đó có nước ta. Tuy sự vận động đó chưa thành vào thời điểm của ông, nhưng nó đã mở đường cho Pháp xâm lược nước ta 206 năm sau. Lính Pháp đổ bộ lên Đà Nẵng ngày 1/9/1858”[[12]]

Kết luận này của Bùi Kha hoàn toàn là võ đoán: “Tuy sự vận động đó chưa thành vào thời điểm của ông, nhưng nó đã mở đường cho Pháp xâm lược nước ta 206 năm sau. Lính Pháp đổ bộ lên Đà Nẵng ngày 1/9/1858”

Dù nhiều lời và to tiếng tranh luận, Bùi Kha đã không thể chứng minh được Rhodes (1593-1660) có liên quan đến việc “Pháp xâm lược nước ta 206 năm sau”. Mọi diễn ngôn của ông chỉ có một giọng điệu, một chủ đích là bài bác Công giáo, kết tội Công giáo tiếp tay cho thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Nhưng ông đã không thể chứng minh được mối quan hệ của Rhodes với cuộc xâm lược của Pháp 206 năm sau khi Rhodes qua đời, mà chỉ ỡm ờ rằng Rhodes “đã mở đường”. Thực ra Bùi Kha chẳng có nghiên cứu gì, chỉ là nói theo người khác.

GS-TS PHẠM VĂN HƯỜNG

Ngày 07-01-2007, báo Người Lao Động đã đăng bài “Đi tìm nguồn gốc chữ quốc ngữ”của GS-TS Phạm Văn Hương. Ông là giáo sư vật lý – Đại Học Bordeaux I.[[13]]

Bài viết trình bày những luận điểm chính có liên quan đến Rhodes sau đây (xin trích nguyên văn):

  1. “Alexandre de Rhodes không quên mình là người Pháp” (lời nhà sử học Jean Lacouture). Ông vận động ráo riết để người Pháp có mặt sớm ở Viễn Đông.

2.Gaspar do Amaral và Antonio Barbosa, cũng là người Bồ Đào Nha là hai giáo sĩ đã sáng tạo ra cách dùng chữ La tinh để ghi âm tiếng Việt mà sau này gọi là chữ quốc ngữ, từ năm 1638.

  1. Hai giáo sĩ do Amaral và Barbosa trước khi mất có để lại trong nhà thờ San Pauli ở Macau những quyển từ điển Việt – Bồ – La tinh mà họ đã sáng tạo. Alexandro Rhodes là người mang từ điển đó về Âu châu. Năm 1651 người ta thấy có quyển từ điển Việt – Bồ Đào Nha – La tinh xuất bản ở Roma, với tên tác giả là Alexandro de Rhodes

4.Đó là lừa đảo, hay nói thẳng ra đó là hành vi “đạo” công trình của Gaspar do Amaral và Antonio Barbosa, lại tự ý ghép tên mình thêm chữ de kệch cỡm! Hành vi “đạo” công trình rất rõ, vì không am hiểu người Việt nên Alexandre viết sai chữ độc nhất trên bìa: Annam viết là Annnam. Có người nói rằng đó là chữ quốc ngữ độc nhất sáng tạo bởi Alexandro Rhodes cũng không xa sự thật lắm!

 Vị đạo sĩ “đạo” công trình này còn hoang mang dẫn đến sai sót chết người trong cuốn Phép giảng tám ngày

  1. Sự đạo công trình của Alexandro còn tái diễn một lần nữa khi ông ta đứng tên mình in ra quyển Tường trình về Nhật Bản với sự tài trợ của công chúa Đan Mạch, mặc dầu tác giả thực sự của công trình này là một giáo sĩ khác thuộc Dòng Tên. Điều gian dối này buộc giáo đoàn Dòng Tên, công khai tố cáo và cảnh giác.

Cũng vì thế, sau này khi Alexandro Rhodes xin phép giáo hội để trở lại Đông Nam Á, thì bị khước từ. Tiếp theo đó Alexandro trôi dạt vào Iran cho đến một ngày đầu tháng 11-1660 thì chết ở Isfahan, thọ 69 tuổi, kết thúc một đời tu hành gian trá.

6.Tuy thế, dù sao đi nữa chúng ta cũng ghi nhận rằng Alexandro de Rhodes đã đưa ra xuất bản những công trình về chữ quốc ngữ sáng tạo bởi hai người Bồ Đào Nha: Gaspar do Amaral và Antonio Barbosa.

Đọc bài viết, tôi nhận ra ngay điều này, TS Phạm Văn Hường có thể là một nhà khoa học uy tín về Vật lý, song trong nghiên cứu lịch sử, ông chỉ là  một “người ngoại đạo”. Tôi ngờ rằng, ông nghe ai nói ở đâu đó đôi điều về Rhodes, rồi bằng bằng tất cả sự thù ghét, ông viết bài “hạ bệ” Rhodes, nhằm “Giải thiêng” những ai tôn sùng Rhodes. Phạm Văn Hường không có bất cứ một tài liệu lịch sử nào làm nền tảng lý luận cho những nhận định của mình. Những kết luận của Phạm Văn Hường về Rhodes hoàn toàn là võ đoán, chủ quan, cảm tính và ác ý.

Chẳng hạn, Phạm Văn Hường khẳng định về Rhodes: “Ông vận động ráo riết để người Pháp có mặt sớm ở Viễn Đông”. Câu văn này mập mờ, người đọc không biết lịch sử có thể tin rằng đó là hiện thực. Phạm Văn Hường không  đưa ra chứng cứ lịch sử Rhodes đã vận động ai, và kết quả vận động thế nào, những lực lượng Pháp nào đã sang Việt Nam theo yêu cầu của Rhodes? Khi đưa ra nhận định về người khác mà không có chứng cứ có giá trị pháp lý thì đó là sự vu khống.

Chẳng hạn, Phạm Văn Hường cố ý mập mờ khi đưa thông tin này: “Hai giáo sĩ do Amaral và Barbosa trước khi mất có để lại trong nhà thờ San Pauli ở Macau những quyển từ điển Việt – Bồ – La tinh mà họ đã sáng tạo”. Phạm Văn Hường không nói rõ tự điển của Amaral tên là gì, tự điển của Barbosa tên là gì, mà viết chung là “ Việt-Bồ-Latinh”.

Theo Rhodes ghi nhận, Amaral đã soạn cuốn Từ vựng Việt-Bồ (Diccionario annamitica-português) để giúp các giáo sĩ học tiếng Việt, còn Antonio Barbosa để lại cuốn tự vựng Bồ- Việt[[14]]. Tự điển của hai ông này không có phần Latinh. Rhodes là người thêm vào phần Latinh và phần Ngữ pháp tiếng Việt. Khi in, Rhodes đặt tên tự điển là Việt-Bồ-La.

Chẳng hạn, nhận định có tính chất “chụp mũ” và hoàn toàn vu khống về Rhodes : “Đó là lừa đảo, hay nói thẳng ra đó là hành vi “đạo” công trình của Gaspar do Amaral và Antonio Barbosa, lại tự ý ghép tên mình thêm chữ de kệch cỡm!”.và nhận định: “Alexandro trôi dạt vào Iran cho đến một ngày đầu tháng 11-1660 thì chết ở Isfahan, thọ 69 tuổi, kết thúc một đời tu hành gian trá”.

Gọi là “vu khống” vì Rhodes nói rõ ở Lời nói đầu tự điển Việt-Bồ-La: “tôi cũng sử dụng những công trình của nhiều Cha khác cùng một Hội Dòng, nhất là của Cha Gaspa de Amaral và Cha Antonio Barbosa, cả hai ông đều đã biên soạn mỗi ông một cuốn từ điển: ông trước bắt đầu từ tiếng An Nam, ông sau bằng tiếng Bồ – đào-nha, nhưng cả hai ông đều đã chết sớm. Sử dụng công khó của hai ông, tôi còn thêm tiếng La – tinh theo lệnh Hồng y rất đáng tôn, vì ngoài những tiện lợi khác, nó còn giúp ích cho người bản xứ học tiếng La tinh”[5. đd]

Gọi đời tu của Rhodes là “đời tu hành gian trá” thì đó là nhận thức và thái độ của một người không biết gì về Rhodes, hơn thế, còn có tà tâm với Rhodes.

Đời tu hành của Rhodes được ông viết lại trong Voyages et Missions (Du hành và truyền giáo). Sau khi rời Việt Nam, “Theo lời yêu cầu của Bề trên Dòng Tên ở Áo Môn, ngày 20-12-1645 Rhodes đáp tàu về Roma, để trình bày với Bề trên Cả Dòng Tên về tình hình Tỉnh Dòng Nhật Bản, với Tòa thánh về thực trạng Giáo hội Việt Nam… Được sự chấp thuận của Thánh bộ Truyền giáo, Rhodes trở sang Pháp, đi tìm ứng viên giám mục. Cuối năm 1652, Rhodes bỏ Roma về Lyon, lên Paris thực hiện cho được mục đích…Nhưng Đức thánh cha Innocens XI lúc đó lại không muốn cho người Pháp giữ trọng trách này, còn vua Bồ Đào Nha thì cực lực phản đối… Đức thánh cha liền yêu cầu cha Bề trên Cả Dòng Tên Goswinus Nickel chuyển Rhodes đi khỏi Pháp…Ngày 16-11-1654, Rhodes lên tàu từ cảng Marseille để tới Malte; lại lên tàu từ đảo Malte để đi Syria; ngày 11-12-1654 tới Seyde thuộc Syria; mừng lễ Chúa giáng sinh tại Thánh địa Palestine; mãi đến 1-11-1655, Rhodes mới đặt chân lên Ispahan… cuộc truyền giảng Tin Mừng của Rhodes ở Ba Tư chẳng thu lượm được mấy kết quả”[[15]].

Nói Alexandro trôi dạt vào Iran là không đúng. Ông đến Ispahan là vâng lệnh của Thánh Bộ truyền giáo và Bề trên Cả Dòng Tên Goswinus Nickel thực hiện theo ý Giáo Hoàng Innocens XI (tức là thực hiện lời khấn vâng phục). Ở  Ispahan, Rhodes đã học tiếng Ba Tư và hoạt động truyền giáo, song đây là vùng dân cư Hồi giáo, việc truyền giáo của ông không mấy kết quả cũng như các thừa sai khác.

Các nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu [[16]], Trần Duy Nhiên và Roland Jacques [[17]] đã chỉ ra những chỗ sai của bài viết “Đi tìm nguồn gốc chữ quốc ngữ” và thái độ không chuẩn mực của Phạm Văn Hường trong nghiên cứu lịch sử. Tôi xin không nhắc lại.

(A. de Rhodes)

 ALEXANDRE DE RHODES VỚI NGƯỜI VIỆT HÔM NAY

            Thực ra, vấn đề về Rhodes gắn liền với vấn đề lịch sử chữ Quốc ngữ. Các nhà nghiên cứu đã xác định việc sáng lập chữ quốc ngữ là công trình tập thể của các Thừa sai người Bồ Đào Nha, người Ý. Khởi đầu là Francisco de Pina, và các Lm Gaspa de Amaral và Cha Antonio Barbosa. Rhodes là người hoàn thiện chữ Quốc ngữ khi ông cho in tại Roma tự điển Việt-Bồ-La và Phép giảng tám ngày (1651). Xin đọc các công trình của Lm Đỗ Quang Chính, TS Phạm Thị Kiều Ly, TS-Lm Roland Jacques (Dương Hữu Nhân)[[18]].

Vấn đề Rhodes có liên can gì với việc thực dân Pháp xâm lược Việt Nam (1858) cũng đã được làm sáng tỏ. Do thiên kiến chính trị, một số tác giả căn cứ vào chữ soldats trong một đoạn văn của Rhodes (Du hành và truyền giáo)[[19]] để cáo buộc Rhodes “xin vua Pháp là Louis XIV đem quân đi đánh chiếm thuộc địa”. Thực tế là, sau khi Rhodes qua đời, 2 Giám mục François Pallu (1626-1684) và Lambert de la Motte (1624–1679) thuộc Hội Thừa Sai Hải ngoại Paris (MEP) mới được gửi đến truyền giáo tại vùng Viễn Đông, chẳng có đội binh lính nào cả sang chiếm thuộc địa.[[20]].

Về việc diễn dịch đoạn văn có chữ soldats (trong Du hành và truyền giáo), bài của GS Chương Thâu có ý nghĩa tổng kết [[21]]. Ông lược thuật ý kiến của Hồng Nhuệ, Cao Huy Thuần, Helen B. Lamb (người Anh), GS Hoàng Tuệ, nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, GS Sử học Đinh Xuân Lâm, Cửu Long Lê Trọng Văn (hải ngoại), rồi kết luận: “Tóm lại, trở về chủ đề của bài viết này, ý kiến cá nhân tôi, sau khi phân tích so sánh các câu dẫn dụng từ một câu dịch nguyên văn của A. de Rhodes, tôi đồng ý với cách diễn giải của Hồng Nhuệ và của Nguyễn Ðình Ðầu. Ðọc kỹ toàn văn cuốn Hành trình và truyền giáo, chúng ta dễ dàng nhận thấy tư tưởng và nguyện vọng của nhà truyền giáo A. de Rhodes ở thế kỷ XVII này

(Hồng Nhuệ chú thích: “từ chiến sĩ ở đây: Nói chiến sĩ Phúc Âm tức là các nhà truyền giáo, chứ không phải binh sĩ đi chiếm xứ xâm lăng” – trang 289). Xin ghi nhận thêm, cả TS Roland Jacques và Ts Phạm Thị Kiều Ly cũng diễn giải chữ soldats theo nghĩa bóng là “chiến sĩ Phúc Âm”[[22]].

PGs.Ts Trần Thanh Ái, giảng viên khoa Sư Phạm, Đại học Cần Thơ cho biết thêm một vấn đề “ngộ nhận” về Rhodes từ câu văn trích [[23]]:

Đây là một vị trí cần được chiếm lấy và chiếm được vị trí này thì thương gia Âu châu sẽ tìm được một nguồn lợi nhuận và tài nguyên phong phú”

Câu trích này được tìm thấy ở trang 304 quyển Lịch sử Việt Nam, tập 1, do Ủy ban KHXH Việt Nam xuất bản tại Hà nội năm 1971, với ghi chú là trích từ quyển Divers voyages et missions en Chine et autres royaumes de l’Orient (Những cuộc hành trình và truyền giáo ở Trung Quốc và các vương quốc khác ở phương Đông) của Alexandre de Rhodes, Paris, 1653, tr. 109-110.

Câu trích dẫn và nhất là thông tin trong ghi chú trên đây đã khiến nhiều nhà nghiên cứu sử học cho rằng Alexandre de Rhodes có ý đồ thực dân”.

Sau nhiều tra cứu, Gs-Ts Trần Thanh Ái kết luận:

Ông Alexandre de Rhodes không hề viết câu “Đây là một vị trí cần được chiếm lấy và chiếm được vị trí này thì thương gia Âu châu sẽ tìm được một nguồn lợi nhuận và tài nguyên phong phú” trong các tác phẩm của ông. Sự nhầm lẫn tai hại này bắt đầu từ A. Thomazi khi ông đã biến một suy luận của người đời sau thành phát biểu của Alexandre de Rhodes. Nguy hiểm hơn nữa, từ sự nhầm lẫn này mà đã có người suy diễn đến việc Pháp chiếm Côn Đảo hai trăm năm sau”.

Tôi nghĩ, việc “giải độc” những ngộ nhận câu chữ của Rhodes đã có đủ kết luận. Việc vinh danh Rhodes như đặt tên đường, đặt bia tưởng niệm, những cuộc hội thảo danh nhân là những việc nên làm đối với một người có công góp phần vào sự hoàn thiện chữ Quốc ngữ, như mọi danh nhân văn hóa khác.

Những vấn đề khác về Rhodes như việc Rhodes đả phá Khổng giáo, Phật giáo trong Phép Giảng tám ngày, hoặc tại sao, sau khi về Roma, Rhodes lại không được điều trở lại Việt Nam mà chuyển đến Ba Tư; cả việc tại sao Rhodes là người nhiệt thành truyền giáo nhưng không được Giáo hội Công giáo La Mã phong thánh…Những vấn đề ấy cần được nghiên cứu cặn kẽ hơn (xin đọc phần II của bài viết này).

Chẳng hạn, Thụy Khuê cho rằng: “Quyết định gửi de Rhodes đi Iran và không phong thánh cho André là một, đến từ chính những điều de Rhodes viết trong ba cuốn sách: Lịch sử Vương quốc Đàng Ngoài, Cái chết vinh hiển của André, Du hành và truyền giáo. Sau khi sách in ra, có thể Tòa Thánh đã đọc lại những trang sách này một cách khách quan, thấy đầy rẫy những việc dị đoan, mê tín, như chữa bệnh bằng nước thánh, trừ tà ma quỷ dữ, làm cho người chết sống lại… có thể làm giảm uy tín của đạo Chúa”[[24]].

Tôi nghĩ, đó chỉ lá võ đoán.

Những vấn đề như vậy là vấn đề riêng của Rhodes với giáo hội, không liên can gì đến dân tộc Việt. Riêng về Giáo hội Việt Nam, dòng Tên Việt Nam vẫn đánh giá cao Rhodes trong sứ mệnh truyền giáo. Xin đọc: Tu sĩ Alexandre de Rhodes từ trầnCha Alexandre de Rhodes, một gương mặt truyền giáo [[25]].

 

***

 

ĐỌC LẠI A. RHODES

Phép giảng tám ngày (Cathechismvs)

“Phép giảng tám ngày cho kẻ muấn chịu phép rửa tội mà beào đạo thánh Đức Chúa Blời”

 

TÓM TẮT  NỘI DUNG PHÉP GIẢNG TÁM NGÀY

Phép giảng tám ngày cho kẻ muấn chịu phép rửa tội mà beào đạo thánh đức Chúa Blời” là chương trình dạy giáo lý (chân lý đạo) cho tân tòng. Nội dung giáo lý được chia làm 8 chủ đề giảng trong 8 ngày. Ngoài những tường thuật từ Cựu Ước và Tân Ước để giảng những tín lý Thần học và Triết học, Rhodes còn hướng dẫn cụ thể, cặn kẽ những nghi thức và luân lý sống đạo cho người muốn vào đạo.

Phép giảng tám ngày trình bày vấn đề sau:

(Lưu ý: Những trích dẫn in nghiêng dưới đây là văn bản Phép giảng tám ngày đã được sửa chính tả theo tiếng Việt đương đại, Một số chữ khác với chính tả Quốc ngữ thời Rhodes. Văn bản trích dẫn giữ nguyên văn phong tiếng Việt thế kỷ 17 của Rhodes: có nhiều hư tư của văn nói. Rhodes dùng đại từ nhân xưng “Ta”, “chúng tôi” để nói tiếng nói của cộng đồng.)

Ngày thứ nhất: Đạo thánh Đức Chúa trời

Con người có hồn và xác. “Sinh ký, tử quy”. “khi chết cũng chẳng có cầm một đồng

đi. Vì chưng người ta ở thế này chẳng ai khỏi sự ấy, thì phải học đạo thánh về đời sau, cho ngày sau chúng tôi được sống lâu vô cùng”. Muốn vậy, “thì phải tìm, ai sinh ra trời che ta, ai sinh ra đất chở ta, ai sinh ra muôn vật nuôi ta. Hỏi cho biết thờ đấy, ấy là đàng phúc…vậy thì ta mới được lên trên thiên đàng, vui vẻ vô cùng”.

Trong nước Annam có đạo thờ trời, nhưng trời do Chúa Trời làm ra, thờ Đức Chúa Trời thì mới phải.

Ba đấng bề trên là: Cha mẹ, Vua và Đức Chúa Trời. “con thảo kính cha mẹ thì thậm

 phải, ví bằng có ai chẳng thảo kính, chẳng khứng vâng phép cha mẹ, thật thì có tội trọng”. Ta phải kính sợ vua, phải cám Ơn và thờ phượng Đức Chúa Trời trên hết mọi sự.

Đạo Chúa không phải là đạo Pha Lang: Chớ có nói: đạo này là đạo Pha-lang! Vì chưng đạo thánh Đức Chúa trời là sáng, và trước, và lớn hơn mặt trời…Đạo thánh Đức Chúa trời thì cũng vậy: dù mà có nước nào đã chịu đạo trước, cũng chẳng nên gọi là đạo nước nọ nước kia, thật tên là đạo thánh Đức Chúa trời, là Chúa trên hết mọi sự, thật là đạo thánh, và trước, và trọng hơn no mọi nước thiên hạ”

Ngày thứ hai: Đức Chúa Trời

            “Bây giờ phải giảng thật Đức Chúa Trời là ai, Đức Chúa Trời ở đâu, bởi đâu mà có Đức Chúa trời”.

Thật Đức Chúa Trời là cội rễ đầu làm hết mọi sự, vì chưng trời đất cùng mọi sự bởi Đức

Chúa Trời làm cội rễ đầu mà ra. Sự Bàn Cổ mà khiến sinh ra trời đất thì dối vậy. Dù Đại Minh lấy Thái Cực mà nói làm ra trời đất, thì chẳng phải lẽ đâu. Chúng tôi cậy Đức Chúa Trời giúp sức cho, mới dám nói Chúa cả là đức Thợ cả làm nên trời đất cùng mọi sự vậy.

            Có ba loài: loài vật, Thiên thần và loài người ta.

Vậy thì ta hay tỏ tường, Đức Chúa Trời thật có phép, và hay biết vô cùng, tính Đức

 Chúa Trời thật là tính thiêng liêng, hằng sống vô cùng…

Vì Đức Chúa trời là tính thiêng liêng, ta phải thờ lạy trong hồn ta. Đức Chúa Trời ở khắp mọi nơi, ta phải kính ở mọi nơi. “Ta muốn cho sống lâu, thì ta cậy một Đức Chúa Trời mà chớ. Đức Chúa trời, là cội rễ đầu mọi sự, thì ta phải tin rằng chẳng có đí gì khuất mặt Đức Chúa trời. Đức Chúa Trời lòng lành vô cùng, khi chưa có thế giới, đã toan sinh ra ta…vì vậy cho ta cám ơn lòng lành vô cùng Đức Chúa trời, thì ta phải giục lòng giữ lời Đức Chúa Trời răn cho lọn. Sau nữa khi có Đức Chúa Trời công bằng vô cùng, phán xét chẳng tây ai”.

Ngày thứ ba: Thợ cả

            (Rhodes thuật lại Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ , loài người theo Sách Sáng Thế)

Ngày thứ nhất, Đức Chúa Trời hóa nên trời cùng đất; thiên đàng cùng địa ngục, cho

 các thiên thần ở trên thiên đàng, Chúa phạt Lucifer củng kẻ nghịch sa xuống địa ngục. Đức Chúa trời Cả phán xét người ta thì cũng vậy, ai vâng phép Đức Chúa trời, thì cho chịu phúc đời đời; mà kẻ nghịch bắt chước theo quỷ, thì Đức Chúa trời phạt nó cùng Satan, chịu tội đời đời vậy.

            Ngày thứ hai, Đức Chúa trời chia nước ra trên dưới…

            Vậy ngày thứ ba khi nước hãy còn bao cả và hòn đất chung quanh, Đức Chúa trời khiến nước họp lại mà để phần đất ráo để dành cho người ta được ở. Thôi đoạn Đức Chúa trời khiến đất mọc ra cây cối, cùng khác rau cỏ, cho người ta và muông chim cầm thú, dọn sinh ra ngày sau dùng. Cũng ngày ấy Đức Chúa trời làm ra nơi vui vẻ, như vườn tốt lành: trong ấy mát mẻ (vườn Eden)

            Ngày thứ bốn, Đức Chúa cả làm nên mọi sự, sinh ra mặt trời cho lở động chung quanh, sinh ra ngôi sao tốt lành, cho lành cả và thế giới này.

Đến ngày thứ năm có lời Đức Chúa trời phán khiến nước sinh ra và các giống chim cho bay trên vậy, và những giống cá cho sống trong nước.

Đến ngày thứ sáu, Đức Chúa trời, làm nên mọi loài, thì lấy đất, mà sinh ra lục súc, cùng giống rắn: lại cho mọi vật ấy có súc sinh nổi loài mình, cho đến hết thế vậy.

Lại cũng một ngày ấy Đức Chúa trời sinh ra loài người (Adam)… Chúa lấy đất mà làm nên thân xác người khéo léo hình ba mươi tuổi đồ, và thổi ra khí sống đến mặt người… Đức Chúa trời cho người làm chúa trên hết muông chim cầm thú, có ở dưới đất, trên gió rỗng và con cá trong nước. Đức Chúa trời đem vào ông Ađam ở trong vườn vui vẻ. Trong vườn vui vẻ ấy có một cây, gọi là cây làm cho biết lành biết dữ. Chúa dạy Adam: ăn trái ấy ngày nào thì chết ngày ấy. Adam vâng lời Chúa.

Khi ấy ông Ađam chưa có bạn, khi Ađam ngủ, Đức Chúa trời lấy một xương sườn cụt ông làm nên xác đàn bà, hình cũng một tuổi đồ bằng ông, mà lại hóa nên linh hồn đem vào trong xác ấy. Thoắt chốc ông Ađam thức, mà thấy bạn thì rằng: “Xương này bây giờ là xương tao, và thịt này là thịt tao”. Nhân vì sự ấy người thì để cha mình và mẹ mình, mà lấy vợ mình làm một cùng, vậy thì hai người ra cùng một thịt.

Đức Chúa trời, là Đức Thợ cả mọi sự, trong sáu ngày làm ra mọi loài, mà nói rằng ngày thứ bảy mọi việc rồi thì có nghỉ.

Ay vậy mà tổ tông ta khi ấy ở trong vườn vui vẻ ấy, bằng an lắm và xác và linh hồn… Song le khi tổ tông ta ở vui vẻ an lành làm vậy, ma quỷ dữ thì ghen ghét.

Ma quỷ nhập vào trong con rắn, dụ bà Eva ăn trái cấm. Đàn bà tay cầm lấy trái cấm, nghe lời dối mà ăn… lại giục lòng chồng cũng phạm tội ấy.

Phạm tội đoạn thì tổ tông ta tức thì hổ ngươi, vì mình ở trần truồng, mà lấy lá cây vả, may lại che mình. Nhân vì sự ấy Đức Chúa trời xua tổ tông ta ra khỏi vườn vui vẻ, Bởi đấy cho nên ta hết thay thảy, khi mới đẻ ra, đã phải lây trộ tội tổ tông ta truyền cho ta” .

Ngày thứ bốn: Những đạo vạy

            (Rhodes kể lại Cựu Ước. Từ Adam, Rhodes dẫn đến nước Đại Minh và Annam).

            Phạm tội đoạn, Adam phải rời khỏi vườn vui vẻ. ông sinh Cain. Abel và Seth.

Abel làm nghề chăn chiên, còn Cain thì làm nghề nông. Do lòng ghen tức với Abel, khi hai người đang ở ngoài đồng, Cain xông tới em mình là Abel, và giết đi. Con cháu Adam đông đúc. Adam sống được 930 năm, rồi qua đời.

Chúa trời làm lụt cả mà phá hết, chỉ để lại ông Noe và con cái ông ấy. (Rhodes kể lại cơn đại hồng thủy).

Ông Noe sống là 950 tuổi. Ba con ông Noe là ông Sem, Cam, Iaphet, thì sinh nối loài người ta đã nhiều. Họ rủ nhau làm thành và tháp cáo cho đầu nó tận trời. Khi đang làm việc ấy hết sức, thì Đức Chúa trời lộn tiếng nó, cho nên ai nấy chẳng biết tiếng anh em. Vì vậy thì nó bỏ việc mới làm thể ấy. Tháp ấy ở bên Babilon. Con cái ông Ađam lìa nhau mà đi khắp thiên hạ. …Họ mất tiếng hebraea, và lại mất truyền đạo thánh Đức Chúa trời, cho nên phải sa đạo vạy.

Lộn lạo tiếng nói đoạn, thì mới ra nước Đại minh, mà Annam thì chịu đạo bởi nước ấy. Khi lộn lạo tiếng nói đoạn, mà Đại minh phải mất tiếng nói trong đạo thật, mà lại chẳng còn có kính truyền đạo thật, thì phải phân ra nhiều đạo vạy. Như thể kẻ lạc đàng thật, thì lạc đi nhiều đàng, mà những đàng vạy. Song le Đại minh vốn thì có phân ra ba đàng cả, những vạy chẳng kể nhiều đàng tiểu mọn khác, cũng vạy vậy. Đàng thứ nhất là đàng về kẻ hãy chữ, gọi là đạo Nho. Đàng thứ hai là đàng kẻ thờ quỷ, ma làm việc dối, gọi là đạo Đạo. Đàng thứ ba là đàng kẻ thờ bụt, gọi là đạo Bụt”.

Rhodes kể nguồn gốc Phật giáo:

            “Thiên trúc quốc có vua Tinh Phạn, đẻ con, dạ thì sáng. Đã lấy con vua nào gần đấy gả cho, mà sinh đẻ được một con gái đoạn.., thì khiến đi ở trên rừng một mình. Có hai quỷ, tên là Alala và Calala dạy nó, dầu hết chớ tin gì có Chúa trời, cùng đặt tên nó là Thích Ca. Đến khi Thích Ca ra dạy kẻ khác sự đạo gian ấy, vì trái lẽ lắm, thì người ta bỏ mà đi hết… Có dạy sự luân hồi, dối trá đầy tớ vậy…và lấy phép giả bởi quỷ mà làm cho thế gian nên dại vậy, cho nên thế gian thờ bụt. Vì chưng thì nói hứa rằng, ai thờ bụt, dẫu là kẻ hèn mọn ở đời này, đến đời sau khi luân hồi thì dễ ra được làm con vua chúa vậy. Song le đầy tớ nào yêu thì càng dối nó, mà làm cho phạm chốn càng sâu, cho đến chẳng tin có Đức Chúa trời vậy, lại khiến không làm cội rễ đầu mọi sự, mà khi thì chết lại về không, lấy không làm bia mọi sự vậy… Vì vậy ông Khổng Tử, là kẻ Đại Minh lấy làm thầy nhất, trong sách thì gọi đạo bụt những đạo rợ mọi vậy”.

(Rhodes kể lại việc vua Hán Minh chọn đại thần sang Thiên Trúc thỉnh kinh. “Bên Thiên Trúc quốc có cho nó đạo Thích Ca, những dối trá vậy”. Vua tin sứ, cho làm chùa chiền. Những người hay chữ thì bắt chước ông Khổng gọi là đạo rợ mọi)

Rhodes nói về đạo Lão và đạo Nho:

Giáo thứ hai ở trong nước Ngô bởi Lão Tử nào mà ra. Kẻ theo giáo này, thì lấy Lão Tử làm nên trời đất. Giáo này thì thờ ma quỷ mà làm những phép giả,.. Có một câu lấy bởi Lão Tử rằng: “Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật”. Ví bằng có ai hỏi đạo ấy, hay là đàng, bởi đâu mà có? Nó thì thưa rằng: hư vô tự nhiên chi đại đạo. Mà mọi sự hóa ra thể nào, thì chẳng biết đí gì nữa”

“Trong Đại minh còn giáo thứ ba, gọi là đạo Nho, những kẻ hay chữ thì theo đấy, mà thờ ông Khổng, vì ông ấy bày chữ ra mà lại dạy lề luật sửa nước Đại minh. Nhân vì sự ấy trong Đại minh thì lấy thờ ông Khổng làm nhất, mà gọi Thánh hiền, là thánh và hiền nhất vậy. Song le nói thể ấy chẳng phải lẽ đâu, vì chưng hay là ông Khổng Tử ấy biết Đức Chúa cả làm nên mọi sự, là cội rễ mọi sự thành, mọi sự lành, hay là chẳng biết. Ví bằng đã biết, mà làm thầy, thì phải dạy đầy tớ cho biết cùng, mà thờ đấy cho nên. Song le ông Khổng chẳng có làm sự ấy, vì vậy chẳng phải hiền, chẳng phải thánh, thật là độc dữ, vì sự nhất phải hay đầu hết, mà chẳng có dạy ai. Ví bằng ông Khổng chẳng biết Đức Chúa trời, là cội rễ, và cội rễ mọi sự lành, mọi sự thánh, nên thánh, nên hiền, làm chi được? Vì vậy thì chẳng khá gọi là ông thánh sốt. Huống lọ lấy phép phải thờ một Đức Chúa trời, mà thờ ông Khổng, thì càng lỗi;..”

Bởi tam giáo này, như bởi nguồn dục, có ra nhiều sự dối khác. Song le bắt mỗi sự dối ấy chẳng có làm chi, vì chưng biết là bởi đâu mà ra, cho hay tỏ tường là dối thì vừa. Như thể có chém cây nào đúc cho ngã, các ngành cây ấy tự nhiên cùng ngã với. Vậy thì ta làm cho Thích Ca, là thằng hay dối người ta, ngã xuống, thì mọi truyện dối trong đạo bụt bởi Thích Ca mà ra, có ngã với thì đã tỏ”

Rhodes phê phán thuyết luân hồi:

Ví bằng có luân hồi, mà chẳng phải dối, thì linh hồn một ở gửi liên vậy: bây giờ thì ở gửi trong xác này, đến sau một giây nữa thì lại ở gửi trong xác khác vậy”.

Rhodes phê phán việc làm giỗ của người Annam:

“Sao người Annam mọi năm mọi có giữ ngày cha mẹ, ông bà, ông vải sinh thì, mà làm giỗ chạp hết sức? Sao tốn của bấy nhiêu mà làm cỗ làm mâm, cùng nhiều sự nữa có dọn cho cha mẹ khi đã sinh thì? Vì chưng nếu linh hồn chết với xác, lo cho kẻ chết chẳng có làm chi”…Song le cũng phải hay, khi linh hồn ta đã khỏi xác thịt này, chẳng còn có dùng ăn uống hay là mặc, cùng các kỳ sự vê xác, vì linh hồn ta là tính thiêng liêng. Mà người Annam mời linh hồn ăn của xác, thì lỗi xa”. “Lại người Annam càng vô phép, mà như thể cười nhạo cha mẹ, khi đã sinh thì, mà dùng những giấy làm nhà, cùng áo, tiền vàng bạc,và các ký sự vẽ, mà cúng cha mẹ”… “Vì vậy thì phải bỏ mọi lễ dối ấy mà đừng, vì chưng thật là bất nghĩa, mà cười nhạo cha mẹ, cùng thêm hình cho cha mẹ. Mà ta phải thảo kính cha mẹ khi đã sinh thì thể nào, đến sau ta sẽ dạy, khi ta giảng sự Đức Chúa trời khiến kính cha mẹ làm sao, dầu còn sống dầu đã qua đời”.

Khi và Đại minh và mọi nước khác đã mất truyền đạo thật, mà bởi quỷ dối, thì phạm sa những đạo vạy, song le có một họ Judaea còn giữ đạo thật Đức Chúa Cả làm nên mọi sự truyền cho…(Rhodes kể lại việc đạo thật truyền từ Ađam qua Mathusala và tổ phụ Abraham, Isaac, truyền đến vua David). “Đại Minh có theo nhiều giáo những dối, ta đã kể và bắt trước, mà ngã lỗ sâu lắm là chẳng tin có Đức Chúa trời, thật trái lẽ trong lòng người ta lắm, mà lại Đại Minh vốn chẳng tin linh hồn ta một hằng sống vậy mà chẳng hay chết”.

“Vì vậy ta tự nhiên đã hay linh hồn người, khi xác chết, thì hãy còn sống, mà lại đã hay thật, linh hồn người chẳng có chết được, vì chẳng có phép nào dưới Đức Chúa trời, mà làm hại được hay là phá được linh hồn ta khi đã khỏi xác”(Rhodes đưa thí dụ xác người ta chết nhưng hồn vẫn còn)

Ngày thứ năm: Một Đức Chúa Trời Ba Ngôi

Đức Chúa Trời ra đời cứu thế. 123

Rhodes giới thiệu nội dung ngày thứ năm: “Rày thì giảng hai điều nhất là Sanctissima

Trinitas, và Đức Chúa Trời ra đời”. Rhodes lưu ý: “…hễ là lời Đức Chúa Trời nói ra, mà thánh Ecclesia truyền cho ta, thì ta phải lấy làm thật hơn con mắt xem”.

            Rhodes luận về Đức Chúa Trời Ba Ngôi: “Vì tính Đức Chúa Trời là một, song le thật là ba ngôi, vì vậy thì gọi là Sanctissima Trinidade, là Đức Cha, và Đức Con, và Đức Spiritus Sanctus. Song le chẳng phải ba Đức Chúa trời, thật là ba ngôi cùng là một Đức Chúa trời, mà hằng có vô cùng, mọi nơi mọi có vô cùng, hay biết vô cùng, phép tắc vô cùng, lòng lành vô cùng, công bằng vô cùng, mọi sự vô cùng làm vậy, cũng ở Đức Cha và ở Đức Con và ở Đức Spirito Santo cũng bằng nhau…”

            Rhodes kể chuyện thánh Augustino suy tư về Chúa Ba Ngôi rồi đề nghị bài học đức tin: “ta làm vậy theo chân, bắt chước ông thánh ấy, bây giờ ta tin thật lời Đức Chúa Trời truyền cho”.

            Sau đó Rhodes kể chuyện “Đức Chúa Trời ra đời” (nội dung của Tân Ước): Đức Bà Maria đồng thân – Thiên thần truyền tin – Đức Mẹ Chúa trời – Đức Mẹ viếng Bà thánh Elizabeth – Ông thánh Ioseph định để bạn mình – Đức Chúa Iesu sinh đẻ ở Bethleem – Đức Mẹ vẫn còn đồng thân – Kẻ chăn chiên đến thờ lạy – Ba vua dâng cúng của lễ.

Rhodes hướng dẫn cách thờ lạy ảnh tưởng Đức Mẹ và Đức Chúa Con và cách cầu nguyện:

…phải sắm sửa ảnh nào khéo, có hình rất thánh đồng thân Maria Đức Mẹ, bồng Đức Con là Đức Chúa Jesu, hãy còn trẻ, cho ta cúi đầu xuống đất, mà lạy. Song le trước thì phải lạy một Đức Chúa Trời ba ngôi, khi ta lạy, ta quỳ gối xuống một lần mà thôi, vậy ta xưng có một tính thiêng liêng Đức Chúa Trời, mà cúi đầu xuống tận đất ba lần, mà kính lạy ba ngôi, cùng khiêm nhường xin mỗi một ngôi tha tội, tha vạ chúng tôi. thôi đoạn, thì phải lạy Đức Chúa Iesu ra đời làm người, mà chuộc tội cho chúng tôi: ta lạy cúi đầu tận đất một lần, mà khiêm nhường cầu khẩn cho chịu được ơn Đức Chúa Jesu đã làm phúc thừa, chuộc tội cho chúng tôi, mà cho ta được khỏi hết mọi tội cho lọn. Sau hết ta cũng phải lạy rất thánh đồng thân, mà cúi đầu xuống đất một lần nữa: vì chưng dẫu ta đã biết thật Đức Chúa Bà đồng thân chẳng phải Đức Chúa trời, song le, vì là Đức Mẹ Đức Chúa Trời, thì có phép cả cầu cùng Đức Con, thật là Đức Chúa Trời, mà ta cậy Đức Chúa Bà cầu cho ta khỏi hết mọi tội.”.

Rhodes giải thích thêm cho người mới gia nhập đạo về việc thờ ảnh tượng:

Đây ta phải bảo kẻ muốn chịu đạo: dù mà đời xưa khi Đức Chúa trời chưa có ra đời, mà chẳng thấy được Đức Chúa trời, khi ấy có thờ mà chẳng có dùng ảnh, song le từ đã ra đời làm người mà coi thấy được, đã xem trên đất, mà ăn ở cùng người ta, khi đã có hình, thì ta lấy ảnh mà làm hình ấy ra, hay là vẽ, hay là chạm, hay là thể khác. Song le khi ta quỳ lạy, cầu trước mặt ảnh Đức Chúa Iesu, hay là ông thánh nào, ta phải có ý nhớ người có ảnh đấy, mà quỳ lạy, cầu người thánh có ảnh ấy mà chớ”.

Ngày thứ sáu: Thầy thuốc cả

Rhodes giới thiệu chủ đề bài giảng của ngày thứ năm:Khi đã nói ra sự sâu nhiệm một Đức Chúa Trời ba ngôi, và sự Đức Chúa Trời ra đời, nói vậy cho người ta tin, vì chưng hai sự ấy quá trên trí mọi loài Đức Chúa Trời hóa ra, bây giờ ta phải suy bằng sức ta vì sao Đức Con thật Đức Chúa trời, cũng là Đức Chúa Trời vậy,…”

Rhodes kể chuyện Đức Giêsu theo Tân Ước:

Chúa Jesu tại Nazareth: Dẫn tích ông Simeon tiên tri; chuyện Đức Mẹ tìm Đức Con ba

ngày, đoạn thì mới thấy ở trong đền thánh, giữa các quân tử – Chúa Jesu giảng đạo “gratia”-Chúa Jesu làm nhiều phép lạ: Phép lạ đầu hết ở Cana – Phép lạ bắt cá – Chúa Jesu làm cho bánh ra nhiều – Chúa cứu chữa người đàn bà tật nguyền – Cứu chữa con gái ông câu đang nhà thánh – Cứu con trai bà góa – Chúa Jesu tỏ mình là Đức Chúa trời – Người Scribae và Pharisaei ghen ghét Chúa Jesu – Chúa cứu chữa người đau nặng đến ngày thứ bảy – cứu chữa người liệt chân tay- Chúa cho sáng mắt người mù bảm sinh – Chúa Jesu biến hình – Chúa cho ông Lazaro sống lại – Người Judaeo lo toan giết Chúa Jesu.

Rhodes giải thích ý nghĩa việc Chúa Jesu làm nhiều phép lạ: Lại Đức Chúa Jesu làm nhiều phép lạ, mà vậy khuyên dỗ người ta tin lời Đức Chúa trời, và làm cho đạo thánh mình dạy càng tỏ nữa: vì tối mắt thì cho sáng, kẻ nặng tai thì cho đã, và kẻ đã chết đã rồi cũng cho sống lại. Cũng có làm nhiều phép lạ, ba năm ấy, khi đang giảng đạo Đức Chúa trời, mà làm vậy thì tỏ ra Đức Chúa Jesu chẳng những là người thật, mà ở cùng người ta như người, ăn uống, và sống trong xác đã lấy, mà ở cùng chúng tôi: lại bởi phép ấy cũng tỏ ra Đức Chúa Jesu thật là Đức Chúa trời, vì đổi những đàng quen trong thế gian này, mặc ý mình, như là Chúa thật mọi sự”.

Ngày thứ bảy: Con chiên lành và chó sói dữ

            “Vậy khi Đức Chúa Jesu sau hết toan ăn tối cùng đầy tớ cả, ngày trước khi toan đi chịu tội, mà lại rửa chân cho hết, và cho thằng Juda về với dọn trao Đức Chúa Jesu cho oan gia. Mà Đức Chúa Jesu tỏ ra cùng nó chước dữ nó toan. Cho nó đừng phạm tội cả ấy. Song le thằng Juda đã lộng lòng làm sự dữ tợn cả làm vậy, mà chê mọi lời bảo, thì sa nơi khốn nạn ấy, vì ma quỉ đã nhập vào mà ở trong lòng nó, vậy thì nó ra cho khỏi”

            Rhodes kể lại cuộc khổ nạn của Chúa Jesu theo Tân Ước:

Thằng Juda nộp Chúa Jesu cho oan gia – Quân dữ đến bắt Chúa Jesu – Chúa bị dẫn đến thầy cả Caipha- bị dẫn ra trước tòa quan Pontio Pilato – Trên đường lên núi Calvaria Chúa gặp Simon và Veronica – Chúa Jesu bị đóng đanh – Chúa Jesu linh hồn ra khỏi xác- Chúa Jesu viếng địa ngục “limbo”- Chúa Jesu trong mả – Chúa Jesu sống lại – Chúa Jesu hiện ra cùng đầy tớ -Chúa Iesu lên trời.

Rhodes dạy tân tòng việc thờ kính và cầu nguyện trước ảnh Chúa Jesu bị đóng đanh:

 “Đến nơi này thì phải lấy ảnh nào khéo Đức Chúa Jesu đóng đanh trên cây Crux, mà đem ra cho người ta xem, có dọn cái nến và cái hương thì mới tốt, mà khuyên người ta có đấy làm vậy, hay là thể như ấy”

 “Ai nấy có đây, hãy ngửa con mắt linh hồn lên, mà ngắm Đức Chúa Jesu, như bằng còn trước mặt ta, đóng đanh trên cây Crux mà chịu tội chịu chết làm vậy! Này là Người, Đức Chúa Trời đã phán, nói hứa đời trước, sẽ mở ra cửa thiên đàng, tổ tông ta thủa xưa đã đóng lại! Này là Người, Đức Chúa Trời đã truyền cho thánh đời xưa có chịu sấm truyền, ngày sau đến cứu loài người ta! Này là người, thật là Đức Chúa trời, tự nhiên chẳng chịu được đí gì, vì chúng tôi đã chọn làm Con Người, mà chịu nạn làm vậy, khi đã mở đàng cho ta được vui vẻ vô cùng, lại làm phép rất lớn cho người ta tin thật lời mình giảng, sau thì đổ máu mình ra, mà đền tội chúng tôi cùng Đức Cha, chịu chết rất xấu hổ, mà mở cửa cho ta hằng sống vậy! Ay là một Chúa chuộc cứu loài người ta, mà ví bằng chẳng có giúp sức cho ta, chẳng có ai chịu được rỗi thật linh hồn…”

 

Ngày thứ tám: Mười bậc thang lên thiên đàng

            Rhodes nói về ngày phán xét chung – Những dấu hiệu báo trứơc. Mọi người đều sống lại: từ ông Ađam cho đến hết thế, có sống khi nào, hết thay thảy ai nấy được xác minh, mà sống lại cùng một ngày. xác kẻ dữ, khi sống lại, thì ra xấu xa, hôi hám, và mọi bề cực khốn nạn; mà xác kẻ lành thì ra rất tốt, có hình rất khéo, rất lành, mọi bề thì được trọn như hình đến trọn tuổi Đức Chúa Jesu”- Chúa Jesu lại xuống thế phán xét. “Nơi phán xét chung này phải làm ở nơi thung tên là Iosaphat, ở gần thành Ierusalem,… ở 1nơi mây, có tòa cực trọng cực sáng”.

– Ai lên thiên đàng hay xuống địa ngục.

Rhodes giảng về mười điều răn (giống như kinh Mười điều răn giáo dân đọc hôm nay)

Rhodes hướng dẫn việc dọn mình chịu phép rửa tội như sau:

Trước hết, Rhodes lưu ý: “Ai nấy đã nghe trót lời giảng từ đầu hết cho đến bây giờ, mà còn có điều gì hồ nghi, thì nên hỏi, hay là chung trước mặt người ta, hay là riêng, mặc người…”

Việc chuẩn bị như sau: “phải cầu cùng Đức Chúa trời nhân lành, mà quỳ gối nguyện một kinh Chúa. Lại nguyện một kinh Ave, xin cùng rất thánh đồng thân Maria, là Đức Mẹ Đức Chúa trời, cầu cho chúng tôi làm việc ấy cho nên.”; “Đoạn mọi việc ấy, thì cho về hết, mà ai nấy thì khóc lóc ăn năn tội mình riêng, ít là một đêm, mà khiêm nhường cầu cùng Đức Chúa trời nhân lành tha tội cho, vì có công Đức Chúa Jesu đã chịu nạn chịu chết cứu chúng tôi; lại xin cùng rất thánh đồng thân Đức Chúa Bà Maria, là Đức Mẹ Đức Chúa trời, và lại xin cùng các thánh cầu cho; cùng ăn chay và nguyện, cho mai sau đã dọn mình nên hơn mà chịu phép thánh rửa tội, là kẻ chẳng có điều gì trở việc thánh ấy…”

Rhodes cũng nói đến những điều trở ngại:

“… bỏ hết bụt đi, chẳng lọ bởi lòng, mà lại kẻ làm chủ nhà cũng đã phá đi bởi nhà mình với. Cũng chẳng còn có ước sự gì dữ cho ai, và chẳng còn có trong lòng giận giũi gì ai, mà lại đã tha cho hết oan gia, và có làm sự gì lỗi nghĩa cùng ai, đã đền bằng, mà đã làm lành cùng. Lại có một vợ chính mà thôi: ví bằng là đành bà có chồng, cho nên vợ thật chồng ấy; nếu chẳng phải vợ thật, thì phải xin chữ để trước, khi chưa có chịu phép rửa tội. Sau hết cũng chẳng có mắc nợ gì ai, mà trả được bây giờ. Vì chưng bốn giống này vốn chẳng khá cho chịu phép rửa tội, cho đến khi đã làm rồi lời ấy nói hứa. Vì chưng ta thấy, nước chưa có đạo ấy, kẻ đã nghe giảng mà dọn chịu đạo, có nói hứa nhiều sự khi muốn chịu phép rửa tội, ví bằng chẳng làm khi chưa có chịu phép ấy, đến khi đã chịu rửa tội, chẳng có làm việc ấy, nhất là kẻ mắc vợ mọn”.

GIÁ TRỊ CỦA PHÉP GIẢNG TÁM NGÀY

1.Phép giảng tám ngày có giá trị đặc biệt trong việc nghiên cứu Chữ Quốc ngữ thế kỷ 17, nghiên cứu tiếng Việt thế kỷ 17. Điều này đã được nhiều nhà nghiên cứu nói đến. Tôi xin không nhắc lại.

  1. Về nội dung, xin lưu ý, Phép giảng tám ngày là bài giảng giáo lý cho người muốn theo đạo, không phải sách Thần học hay Triết học phổ biến cho cộng đồng. Rhodes dựa vào truyền thống văn hóa, tư tưởng Đại Việt để trình bày vần đề.

Trọng tâm của Rhodes là giáo dục đức tin cho người muốn theo đạo (tân tòng). Đó là những mầu nhiệm về Thiên Chúa ba Ngôi, Thiên đàng, địa ngục, sự sống, sự chết và phán xét chung. Rhodes đặc biệt trình bày công cuộc cứu độ của Chúa Giêsu từ lúc nhập thể đến quá trình loan báo tin mừng, làm nhiều phép lạ, chịu chết, sống lại vả lên trời. Nhân đó Rhodes giáo dục những quy chuẩn và luân lý  sống đạo.

Rhodes nói về phương pháp truyền giáo của mình như sau:

Phương pháp tôi dùng là luận về linh hồn bất tử và sự sống đời sau, từ đó chứng minh về tính Thiên Chúa, về quan phòng của Người và dần dần mới đề cập tới mầu nhiệm khó hơn. Theo kinh nghiệm chúng tôi thấy, cách giảng dạy lương dân như thế rất có ích: tôi đã cắt nghĩa dài hơn trong cuốn Phép giảng tám ngày trong đó tôi cố trình bày hết các chân lý căn bản phải giảng dạy lương dân. Ngoài ơn bên trong giúp cho công việc thu phục muôn dân, còn có nhiều phép lạ thường xuyên xảy ra trong lúc khai sinh giáo đoàn, làm cho công cuộc được thành đạt vẻ vang”. (Hành trình và truyền giáo-Chương 9).

Để trình bày những nội dung ấy, Rhodes kể lại Cựu Ước và Tân Ước, so sánh với tín ngưỡng và văn hóa Việt, kết hợp với việc quan sát đời sống thực tiễn, từ đó minh giải những tín niệm Thần học về đức tin.

Để khai ngộ cho tân tòng, Rhodes đặc biệt phân biệt “đạo thật” và “đạo vạy”: Đạo nào biết thờ kính Đức Chúa Trời, tin chúa Giêsu, thì đó là “đạo thật”, “đạo thánh” do sấm truyền. Các tôn giáo của Đại Minh (Phật giáo, Nho giáo, Lão giáo) là “đạo vạy” vì không tin thờ Đức Chúa Trời, nói những điều ma quỷ dối trá,

Rhodes còn hướng dẫn cặn kẽ tân tòng thực hành Mười điều răn, hướng dẫn việc kính thờ ảnh tượng thánh, cách cầu nguyện, và chỉ ra cái sai về tín lý trong việc việc dùng mâm cỗ cũng giỗ ông bà…

  1. Về nghệ thuật, Phép giảng tám ngày tuy là một văn bản chính luận (trình bày vấn đề-đưa lý lẽ, dẫn chứng bàn bạc, hướng đến thuyết phục người nghe), song có nhiều phẩm chất của một tác phẩm văn chương.

Tác phẩm có nhiều đọan kể lại chuyện Kinh thánh như Đại hồng thủy, cuộc đời chúa Giêsu từ khi sinh ra đến khi về trời…Rhodes kể chuyện (tự sự) sinh động: dựng cảnh, khắc họa nhân vật, tả tâm lý, xây dựng tình huống sống động. Rhodes sử dụng cách kể chuyện dân gian: không thuật lại câu chuyện theo nguyên văn Kinh thánh, mà kể theo cốt truyện, diễn đạt một các sáng tạo bằng ngôn ngữ cá nhân. Trong khi kể cốt truyện chính, Rhodes thêm vào những bình luận hoặc dẫn giải riêng, hoặc những liên hệ thực tiễn. Và, có lẽ để tạo hấp dẫn, Rhodes sử dụng nhiều huyền thoại. Trong văn bản Phép giảng tám ngày, Rhodes không ghi nguồn tham chiếu, nhưng người đã đọc Kinh thánh đều có thể nhận ra nguồn.

Điều đặc sắc của ngòi bút A. Rhodes là vận dụng những thành ngữ minh triết Việt, cùng với triết học phương Đông để lập luận, đối thoại, thuyết phục; đồng thời đem vào tác phẩm những câu chuyện cụ thể, sinh động của đời sống Việt để phân tích, lý giải (chẳng hạn việc người Việt làm mâm cơm cúng giỗ ông bà tổ tiên), từ đó “giải đọc” những gì ông cho là mê tín.

Giá trị tư tưởng đặc sắc của Phép giảng tám ngày là đem vào đời sống tinh thần, đời sống văn hóa và văn học Việt những  giá trị Thần học, triết học và điển ngữ phương tây (Kinh thánh Cựu Ước và Tân Ước), khác hẳn với triết học, điển ngữ Trung Hoa trong đời sống tinh thần, trong văn hóa, văn học Việt lúc bấy giờ.

Xin đọc:

Khi Đức Chúa Trời làm ra đàn bà, chẳng có lấy xương đầu ông Ađam làm, chưng đàn ông là đầu đàn bà, đàn bà phải chịu luỵ chồng. Vì dẫu mà đàn bà bảo sẽ sẽ chồng khi chồng lỗi, thì cũng được, song le mắng mỏ chồng thì chẳng được, vì chưng phải chịu luỵ chẳng phải đầu chồng đâu. Song le Đức Chúa Trời cũng chẳng có lấy xương chân làm đàn bà ra, bèn lấy xương sườn cụt làm: vì chưng chồng chẳng khá lấy vợ làm như tôi tá, nên yêu như bạn vậy. Lại Đức Chúa Trời chẳng có làm cho ông Ađam hai ba vợ, bèn   cho một vợ vậy, vì chưng hai người thì nên một thịt, như lời sấm truyền ông Ađam nói ra, chẳng phải nhiều. Lại người Annam cũng nói vậy: hai vợ chồng gửi xương gửi thịt nhau. Vì chưng như chồng có phép trên mình vợ, cho nên khi chồng còn sống, vợ lấy chồng khác chẳng được; vợ thì cũng có phép trên mình chồng như vậy, vì chưng khi vợ còn sống chồng lấy vợ khác cũng chẳng được. có phép Đức Chúa Trời răn, làm vợ chồng bằng nhau trong việc ấy, từ đầu hết thế…”.

Đoạn văn trên chứa đựng nhiều đặc điểm văn phong (phong cách văn bản) của Rhodes.

Rhodes sử dụng lập luận nhân-quả (từ nối “vì – nên”), lập luận tương phản (từ nối “nhưng”, “song le”) và phép trùng điệp nên lập luận của Rhgodes rất chặt chẽ và có tính thuyết phục. Về tư tưởng, Rhodes dựa trên Kinh thánh, và căn cứ vào lời dạy của Đức Chúa trời, kết hợp với minh triết Việt để trình bày và khẳng định luân lý hôn nhân gia đình. Những luận điểm chính được Rhodes lặp lại nhiều lần (“Lại Đức Chúa Trời chẳng có làm…”; “Lại người Annam cũng nói vậy) nên luật hôn nhân gia đình một vợ một chồng Công giáo trở nên như một chân lý hiển nhiên. Rhpdes phủ định triệt để chế độ đa thê phong kiến. Đây là trật tự gia đình: “Khi Đức Chúa Trời làm ra đàn bà, chẳng có lấy xương đầu ông Ađam mà làm, vì chưng đàn ông là đầu đàn bà, mà đàn bà phải chịu luỵ chồng.”. Đây là luật một vợ, một chồng: “Đức Chúa Trời chẳng có làm cho ông Ađam hai ba vợ, bèn cho một vợ vậy, vì chưng hai người thì nên một thịt, như lời sấm truyền ông Ađam nói ra”. Mối quan hệ vợ chồng là sự bình đẳng: “…có phép Đức Chúa Trời răn, làm vợ chồng bằng nhau trong việc ấy”. Đây là luân lý hôn nhân: “chồng có phép trên mình vợ, cho nên khi chồng còn sống, vợ lấy chồng khác chẳng được; vợ cũng có phép trên mình chồng như vậy, khi vợ còn sống chồng lấy vợ khác cũng chẳng được”.

Ngôn ngữ, giọng điệu chính của văn bản là khẩu ngữ bình dân đương thời với nhiều từ nối và  hư từthì, mà, là… “Hư từ” là từ có nghĩa ngữ pháp nhưng không có nghĩa từ vựng. Đoạn văn trên có 9 chữ “mà”, 4 chữ “thì”, và nhiều từ nối nhân quả “vì, vì chưng, vì dẫu mà…nên, cho nên”, từ nối tương phẩn: “nhưng, song le..”. Những hư từ này có thể bỏ đi mà không ảnh hưởng nội dung diễn đạt. Lặp lại nhiều lần những hư từ ấy chứng tỏ Rhodes cố ý viết như vậy để bảo đảm sự vững chắc cho việc lập luận và khẳng định được chân lý mình trình bày.

  1. Hạn chế của Rhodes.

Rhodes kết nối lịch sử Cựu Ước với nước Đại Minh không thuyết phục. Không có mối liên lạc nào giữa con cháu Ađam với dân tộc Trung Hoa (Đại Minh). Rhodes lý giải Đại Minh có nhiều “đạo vạy” vì hỗn loạn ngôn ngữ từ thời tháp Babel (Cựu Ước). Đại Minh lạc mất đạo thật nên sinh ra nhiều “đạo vạy”(đạo gian dối thờ ma quỷ). Lập luận ấy là bịa đặt và có tính áp đặt, hoàn toàn thiếu cơ sở khoa học, văn hóa, lịch sử. Không phải Rhodes không biết điều ấy, song trong cách viết, ông muốn kết nối Cựu ước với thực tiễn phương đông (Đại Minh), để chứng minh đạo Đức Chúa Trời là đạo thật, có từ thời sấm truyền, là đạo của toàn nhân loại.

Rhodes không đề cập đến những giá trị tích cực về tư tưởng, văn hóa và tâm linh của Phật giáo, Nho giáo và Lão giáo; trái lại, Rhodes cố ý trình bày giản lược, diễn giải sai lạc và với thái độ miệt thị về nguồn gốc, triết lý và niềm tin tôn giáo của các tôn giáo này (xin đọc: Ngày thứ tư: Những đạo vạy). Đó là một sự xúc phạm tâm linh mà các dân tộc phương đông không thể chấp nhận. Trung Quốc, Nhật Bản đã cấm đạo Thiên Chúa một cách triệt để. Thiên Chúa giáo không thể chen chân vào đất nước Lào, Cambodia, Thái Lan, Miến Điện là những nước xung quanh Việt Nam. Châu Á có 3,5 tỷ người nhưng chỉ có 110 triệu người Công giáo (tỷ lệ 2,9%)[[26]]. Và nói cho đúng, ở Việt Nam Phật giáo cũng đã bén rễ rất lâu, đã trở thành một bộ phận của văn hóa Việt ( theo Lĩnh Nam trích quái, truyện “Nhất Dạ Trạch”, thì Chử Đồng Tử là Phật tử người Việt đầu tiên, theo học đạo với nhà sư Phật Quang).…Rhodes chỉ có một lập luận rằng: những tôn giáo nào không biết, không tôn thờ Đức Chúa Trời, thì đó là “đạo vạy”, thuộc về ma quỷ. Người theo Chúa cần phải dứt khoát từ bỏ.

Chính những diễn giải phiến diện và thái độ miệt thị của Rhodes về các tôn giáo bạn đã gây nên nhiều phản đối trong việc đánh giá Rhodes.

Xin đọc Tông huấn Giáo hội tại Châu Á (Ecclesia in Asia) của thánh giáo hoàng Gioan-Phaolo II để hiểu đúng quan điểm thần học của Giáo hội về các tôn giáo bạn.

Ngoài ra, khi diễn giải Kinh Thánh, Rhodes không tránh được việc gây ra những ngộ nhận sai tín lý cho người đọc.

Xin đọc:

“Khi rất thánh đồng thân thưa điều thiên hạ ước, bỗng chốc bởi phép Spirito Santo chịu thai con, vì chưng phép vô cùng Đức Chúa Trời có lấy màu rất tịnh Đức Chúa Bà, mà trong thai thì sinh xác người nhỏ mà trọn vậy, một chốc ấy Đức Chúa Trời cũng sinh ra một linh hồn, có mọi nhân đức và phép Đức Chúa trời, mà lại Đức Chúa Trời làm phép cả, trên hết mọi phép xưa nay cho đến hết thế, vì chưng Đức Chúa Trời buộc lại và xác và linh hồn ấy cùng ngôi thứ hai là Con Đức Chúa Trời mà chẳng có dứt được khi nào, cho nên chốc ấy cũng một ngôi thật là Đức Chúa trời, cũng là thật người…”

Diễn giải như thế về mầu nhiệm Ngôi Hai nhập thể là không chấp nhận được.

Rhodes giải thích cảnh trời đất tối tăm khi đức Giêsu tắt thở bằng hiện tượng nhật thực:

“Vậy từ chính giờ ngọ cho đến hết giờ thân, thì mặt trời ra tối, mà cả và thiên hạ phải tối tăm mù mịt. Cho ta biết phép lạ này là bao lớn, thì phải hay mặt trời có phải nhật thực, một khi mặt trời ở một bên, đất thì ở bên khác, mà mặt trăng phải ở giữa. Vì chưng khi mặt trăng ở giữa làm vậy, thì trở ánh mặt trời kẻo đến ta. Vì sự ấy nhật thực có đến ngày ba mươi, hay là mồng một mà thôi. Song le ngày rằm khi mặt trời ở một bên, mặt trăng ở bên khác, xa nhau mà đất ở giữa, khi ấy mặt trăng trở ánh mặt trời, kẻo soi đất, thì chẳng được. Mà khi Đức Chúa Iesu chịu đóng đanh trên cây Crux, đang làm lễ cả Pascoa, mà có làm lễ ấy ngày rằm mà thôi, bởi có phép Đức Chúa Trời mới có nhật thực ấy, vì chưng khi ấy mặt trăng ở ẩn mình như dưới đất, khi mặt trời ở trên, đang nửa ngày, mà thoắt chốc mặt trăng thì lên cho đến dưới mặt trời ngay, mà che mặt trời. Chẳng lọ là che một hai nước, như thường làm, mà lại che cả và thiên hạ, cho nên no mọi nơi phải tối tăm mù mịt, chưa hề thấy lần nào làm vậy. Mà lại nhật thực ấy một giờ rưỡi làm tối mặt trời, đang khi Đức Chúa Iesu còn sống chịu tội trên cây Crux, như thể đèn trời dẫu chẳng sống thì hổ ngươi, mà chẳng cho ai thấy Con Đức Chúa trời, làm nên mọi sự, có chịu xấu hổ từng ấy…”

Những diễn giải như thế hoàn toàn do Rhodes chủ quan đặt ra. Kinh thánh Tân Ước không nói vậy. Xin đọc Tân ước Mt 27, 45-56.

***

“HÀNH TRÌNH VÀ TRUYỀN GIÁO”

(Bìa Hành trình và truyền giáo)

Có các bản in:

  • Divers voyages et missions dv P. Alexandre de Rhodes en la Chine, & autres royaumes de l’Orient, avec son retour en Europe par la Perse & l’Armenie …Publication: A Paris, Chez S. Cramoisy, imprimeur ordinaire du roy & de la reyne, et G. Cramoisy,
  • Voyages et Missions (Du hành và truyền giáo), do nhà Nxb Julien, Lanier et Ciein ở Paris, năm 1854
  • Hành trình và truyền giáo. Hồng Nguệ-Nguyễn Khắc xuyên dịch (bản 1854). Nhà xuất bản Khoa học Xã hội và Ủy ban đoàn kết Công Giáo TP. Hồ Chí Minh xuất bản năm

NỘI DUNG “Hành trình và truyền giáo”

Nội dung cuốn sách chia làm ba phần.

Phần I: hành trình từ Roma qua Pháp tới Lisbon, rồi vòng bờ biển Phi châu tới Ấn độ, qua Malacca tới Macao năm 1623. Hành trình này dài gần tới 5 năm.

Phần II: Rhodes kể lại việc truyền giáo ở Đàng Trong, Đàng Ngoài rồi Đàng Trong, từ năm 1624 cho tới 1645, trong đó có 10 năm ông trở về Macao (1630-1640).

Phần III: hành trình từ Macao qua Malacca, đến vùng Vịnh, sau đó đến đất liền qua Ba Tư tới Địa Trung Hải để lấy tàu về Roma.

***

Sáu lần Rhodes đến Đại Việt cụ thể như sau:

Lần I: (10/1624 -7/1626)

Bề trên phái cha Mathêu Mattos, cùng năm bạn đồng sự trong đó có Rhodes và một người Nhật thông thạo chữ Hán, khởi hành từ Macao tháng 10. 1624, và sau 19 ngày đoàn tới Đàng Trong (Chương 3).  Rhodes làm việc với cha Francois de Pina ở tỉnh Quảng Nam, nơi có một số rất đông lương dân chịu phép rửa tội (chương 4). Rhodes ở Đàng Trong chừng 18 tháng và rất hài lòng thấy số dân Thiên Chúa tăng lên. Ông rời Đàng Trong tháng 7/1626, sẽ trở lại 14 năm sau (chương 5)

Lần II: (từ 3/1627 tới 5/1630)

Ngày 12.3.1627, Rhodes rời Macao. Ngày 19/3 1627 ông cập bến cửa Bạng ở tỉnh Thanh Hóa. Trong hai tháng trời ông rửa tội cho 200 người (Chương 8).

Ông kể: Đến Kẻ Chợ, chúa [Trịnh Tráng] dựng cho một nhà ở và một nhà thờ xinh đẹp.“người ta tuốn đến rất đông. Một bà em gái của chúa và 10 người họ hàng gần đã được rửa tội, có mấy tướng lãnh nổi tiếng cũng xin theo đạo và nhiều binh sĩ nữa.(Chương 9). Rhodes kể: Năm thứ nhất, số người chịu phép rửa tội là 1200 người,…năm thứ ba 3.500. Không gì làm tôi bỡ ngỡ nữa, tôi thấy dễ dàng chinh phục các vị sư sãi, (…) tôi đã rửa tội được 200, những người này rất đắc lực giúp tôi chinh phục kẻ khác. Rhodes cũng kể phương pháp truyền giáo của ông và chứng kiến nhiều phép lạ. Có cả phép lạ người chết sống lại

Những cơn bão ập đến. Người ta chống đối vì ông giảng đạo cấm đàn ông nhiều vợ. Ông bị vu khống ông là phù thủy. Nhà chúa cấm ông giảng đạo và trục xuất ông. Ở Đàng Ngoài 3 năm và 2 tháng (từ 19. 3.1627 tới tháng 5.1630), ông chán nản trở về Macao và liền thỉnh cầu bề trên chớ để đàn chiên không chủ. (chương 12)

 

Lần III: (6/1640-21/9/1640)

 Lần thứ 2 Rhodes được phái tới Đàng Trong (6. 1640). Ông sống lẩn trốn ở Hội An. Nhờ một người Nhật dẫn vào phủ, ông yết kiến chúa ở Thuận Hóa. Ông kể: “Nhà chúa niềm nở tiếp đãi tôi, niềm nở săn sóc tôi. Thế là đến lúc tôi phải nắm cơ hội thuận lợi Thiên Chúa ban cho để làm việc vì lòng kính mến Người… Hằng ngày tôi làm lễ, vì quá đông người nên trong dịp đại lễ, tôi phải làm tới mấy lễ. Suốt tuần thánh tôi ở lại đây.. Tôi ở lại 35 ngày trong thành phố này, rửa tội được 94 lương dân và ngoài ra còn 3 bà họ rất gần với chúa, tôi đã rửa tội trọng thể ngày lễ Phục sinh.”.

Ông Nghè Bộ, quan cai trị tỉnh Quảng Nam, nhất quyết trục xuất ông. Rhodes phải sắm một chiếc thuyền cùng với cha Albert và ba giáo dân trẻ tuổi vượt qua vịnh Hải Nam, vượt biển, cập bến Macao ngày 21. 9.1640 (Chương 13)

Lần IV: (12/1640-7/1641)

Ông khởi hành từ Macao ngày 17-12-1640, đến Cửa Hàn trước đêm Noël. Đầu năm 1641, Rhodes đi một vòng tỉnh Quảng Nam (chương 16). Rhodes bỏ ra 6 tháng để đi một vòng cả ba tỉnh Quảng Ngãi, Quy Nhơn và Phú Yên. Ông đã rửa tội được 1205 lương dân (Chương 17). Sau 6 tháng ở 3 tỉnh miền nam, Rhodes bị quan trấn thủ Quảng Nam truy sát. Ông đi Philippines lánh nạn. Khởi hành ngày 2. 7.1641, ông tới Bolinao Ngày 28/7/1641 (Chương 19).

Lần V: (1/1642- 9/1643)

Trở lại Đàng Trong và đi thăm viếng trong 2 năm: cuối tháng giêng năm 1642, Rhodes từ Philippines đi thuyền của người Bồ một mình đến Đàng Trong. Ông lấy lòng quan trấn thủ Quảng Nam. Ông này để Rhodes yên hàn trong 2 năm. Rhodes ra mắt chúa, tặng chúa đồng hồ. Rhodes cắt nghĩa cho chúa biết một vài bí quyết toán học và giảng dạy cho giáo dân hiểu mầu nhiệm đức tin.

Chúa không cho ông ở lại. Rhodes đến tỉnh Quảng Nam và trù tính đi một vòng trong nước, thăm giáo dân. Ban ngày ông trốn tránh, ban đêm hoạt động cùng với nhóm 10 thanh niên, trong đó có 3 người được phúc tử đạo là Anrê Phú Yên, Inhaxu và Vincentê. “chúng tôi cùng nhau đi khắp các tỉnh, các làng các xã ở Đàng Trong. Thiên Chúa phù hộ ban ơn giúp đỡ chúng tôi và số giáo dân trong một thời gian ngắn đã thêm được hơn 1.000” (Chương 21). Rhodes trở về Macao vào tháng 9/ 1643 sau khi nhóm  10 thanh niên làm lễ tuyên thệ rồi phân chia nhau đi rao giảng (Chương 23).

Lần VI:   ( 1/1644-3/7/1645)

Ông trở lại Đàng Trong cuối tháng 1-1644 và Bị trục xuất ngày 3/ 7/ 1645

Ông cùng với 17 thầy giảng vào phủ chúa tặng qùa và thăm giáo dân. Chúa (Nguyễn) ân cần tiếp đãi (chương 24). Rhodes chứng kiến Anrê bị bắt và chịu tử đạo. Rhodes gửi thân xác Anrê về Ma Cao (Chương 32). Rhodes cũng kể lại nhiều gương giáo dân trung kiên trong đức tin khi phải đối đầu với thử thách (Các chương 33, 34, 35, 36, 37, 38, 39, 40, 51). Thầy Inhaxu và Rhodes bị tù, nhưng chúa ra lệnh tha (Chương 37). Nhà chúa đón tiếp đặc biệt các nữ tu phương tây (Chương 42). Bị án tù rồi được tha (Chương 46). Bị giam ở Hội An 22 ngày (Chương 49). Bị trục xuất khỏi Đàng Trong [ngày 3/ 7/ 1645] và được phép lạ nhờ lời cầu xin thầy An rê (Chương 50). Sau khi Rhodes rời Đàng Trong, 9 người trong nhóm 10 thầy giảng bị chúa xét xử “tội không chịu chối bỏ đạo”. Inhaxu và Vincentê bị chém đầu. 7 người còn lại bị chặt một ngón tay.

NHỮNG GIÁ TRỊ

  1. Hành trình và truyền giáo được Rhodes cho in năm 1653 sau 8 năm ông rời Đàng

Trong (năm 1645). Đó là một cuốn hồi ký. Tôi nghĩ, cuốn sách này được viết với ý thức sâu sắc của Rhodes về mục đích diễn ngôn, về chọn lựa con người, sự việc, biến cố lịch sử để ghi lại, để bày tỏ thái độ; về cách viết và về cả những ý nguyện của Rhodes chưa thực hiện được ở Việt Nam trong hành trình truyền giáo của mình. Vì thế, Hành trình và truyền giáo có nhiều giá trị lịch sử.

Rhodes viết bằng bút pháp của thể ký, ghi “người thật việc thật” mà Rhodes là người trong cuộc, là người chứng kiến (có thể đối sánh với Lê Hữu Trác, 130 năm sau, viết Thượng kinh ký sự-1783- bằng chữ Hán)..

Ngòi bút của Rhodes tràn đầy cảm hừng lãng mạn tôn giáo. Tình cảm của Rhodes dành cho vùng đất này bao trùm mọi góc nhìn của Rhodes, vì thế Hành trình và truyền giáo là một bút ký lãng mạn. Chất lãng mạn trong ngòi bút của Rhodes có thể làm người đọc nghi ngờ tính “chân thực lịch sử” và dẫn đến việc đọc không đúng tín hiệu ngôn ngữ của tác phẩm (thí dụ: cách đọc văn bản của Thụy Khuê). Tuy nhiên, nếu người đọc đối chiếu với những nguồn sử liệu khác nhau thì có thể nhìn ra độ xác thực những điều Rhodes kể lại trong một cuốn hồi ký này, và nguồn cảm hứng lãng mạn trong ngòi bút của Rhodes là từ đức tin và lòng nhiệt thành truyền giáo. Vì thế, Hành trình và truyền giáo giữ nguyên giá trị suốt gần 400 năm qua.

  1. Rhodes ca ngợi con người và đất nước Việt Nam giàu đẹp (Chương 6 & 7), dù Đàng

Trong hay Đàng Ngoài, dù chiến tranh Trịnh-Nguyễn đang diễn ra (1627-1672). Rhodes đi khắp đất nước này, nơi nào cũng đẹp, người dân nước này hiền hòa thân thiện và can trường. Rhodes thán phục cảnh duyện binh của nhà chúa. Ông không nói gì đến những mâu thuẫn chính trị và chiến tranh Trịnh -Nguyễn. Rhodes có quan hệ tốt với nhà chúa ở cả hai bên. Nhà chúa cũng dành cho Rhodes những điều tốt đẹp. Ở Đàng Ngoài Rhodes được chúa Trịnh quý mến tiếp đãi ân cần. Rhodes tặng chúa một đồng hồ lên giây và một đồng hồ cát (Chương 8).

Ở Đàng Trong, Rhodes kể: “Tôi đã gặp lại chúa. Ngài rất thân tình đón tôi và nhận lễ phẩm tôi dâng. Hôm sau ngài lại thân hành ra thăm chúng tôi trong thuyền. Ở đây may mắn làm sao, ngài lại gặp tôi” (Chương 24). Rhodes cũng giao tiếp thân thiện với tầng lớp trên. Ông kể: “tôi trở về kinh đô, năm 1644 này, tôi nhất định đến thăm một vị quan có thế giá rất được lòng chúa. cách đây 20 năm, tôi đã được biết tiếng ông. Ông rất ân cần đón tiếp tôi và rất sẵn sàng nghe tôi đàm luận. Ông để cho vợ cùng tất cả gia nhân ai muốn theo thì theo. Tôi đã rửa tội cho bà và mấy người trong nhà với hy vọng Thiên Chúa mãnh liệt lay động tâm tư ông.”(Chương 29).

Nhà chúa chỉ cấm Rhodes giảng đạo khi thấy lương dân theo đạo rất đông, và nghe lời vu khống của người thân, trong đó có “tên đại thù địch Ông Nghè Bộ”(Chương 34).

Rhodes kể: “Tôi gặp sáu vị quan tra hỏi tôi về đạo mới tôi rao giảng, tại sao tôi chinh phục được nhiều giáo dân như thế, mặc dầu chúa đã ngăn cấm. Tôi đáp: tôi làm việc này vì vâng lời Thiên Chúa, đấng quyền thế” (Chương 37).

Đây là lý do chúa cấm Rhodes giảng đạo (Chương 11):

Đạo có hại cho tiền đồ đất nước vì đạo cấm lấy nhiều vợ và do đó hạn chế dân số, bớt số tráng đinh làm việc cho chúa…

          Chúa ra sắc lệnh cấm tất cả thần dân không được nghe đạo mới đưa từ trời Âu tới, bởi vì đạo có hại cho tiền đồ Nhà nước và thuần phong mỹ tục toàn dân…

          Số là người ta tố cáo giáo dân đập nhà tượng thần, rồi đến thưa với chúa rằng tôi là thầy phù thuỷ, hơi thở của tôi có phù có phép vặn đầu ngƣời tôi đối thoại, không ai chống lại đƣợc

Đầu năm 1630. Chúa cấm tôi không được giảng đạo mới trong đất nước của chúa, ra lệnh cho tôi phải rút về Macao..”.

  1. Rhodes đặc biệt ca ngợi lòng đạo nhiệt thành của giáo dân Việt. Rhodes dành nhiều

chương để viết về những gương sống đạo can trường của giáo dân trước những cơn giông bão cấm đạo của nhà chúa, trước những truy lùng bắt bớ của quan lại địa phương. Dù vậy, Rhodes cũng nhiều lần thất bại không thuyết phục được những trí thức Nho học theo đạo.

Xin đọc 17 chương sau đây:

Chương 25: Lòng mộ đạo của bà Maria .

Chương 26: Lòng sốt sắng của giáo dân trong tuần thánh và từ khắp nơi giáo dân tuôn

đến.

Chương 27: Cuộc trở lại của mấy người lỗi lạc.

Chương 28: Bổn đạo cũ ở Đàng Ngoài đến mời tôi đi thăm họ.

Chương 29: Ba vị khâm phục đạo nhưng chưa dám tin theo.

Chương 30: Nhiệt thành của một giáo dân tên là Gioan trong việc chinh phục lương dân.

Chương 32: Những thành công vẻ vang của giáo đoàn mới và thầy giảng Anrê tử đạo.

Chương 33: Kiên trì của một giáo dân cũng tên là Anrê và mấy người khác.

Chương 34: Ba mươi nhăm giáo dân xưng đức tin trong vụ bắt bớ.

Chương 35: Lẩn tránh trong thuyền, tôi đi thăm lần cuối cùng mấy tỉnh miền nam .

Chương 36: Những đau khổ trong dịp lễ Giáng Sinh.

Chương 37: Thầy Inhaxu và tôi bị tù, nhưng Chúa ra lệnh tha.

Chương 38: Inhaxu bị tù cùng mấy giáo dân, lòng kiên trung của họ.

Chương 39: Lòng kiên trì đặc biệt của bốn bà có đạo.

Chương 40: Can tràng của bảy giáo dân mạnh bạo.

Chương 47: Chín thầy giảng bị gông cùm và chúng tôi đau khổ trong ngục

Chương 51: Sau khi tôi về Macao, 9 bạn đồng sự làm chứng vì đạo

Viết về giáo dân Việt, Rhodes tràn đầy cảm hứng lãng mạng:

Các tông đồ kiên trì giảng Phúc âm đưa vào lưới rất nhiều cá đến nỗi không thể kéo lên được, nên đã kêu gào trong thư gủi về bề trên ở Macao để xin phái các cha đến viện trợ, dù có gửi tới hai chục thì vẫn còn những mẻ cá lớn lao và tốt đẹp để săn sóc. Vì Nhật Bản vẫn thi hành chính sách bế quan tỏa cảng, nên bề trên tin rằng Chúa cho phép sự ác đó để mở cửa cho Đàng Trong nhận Phúc âm” (Chương 3).

“Tôi nói thật, không gì làm cho tôi xúc động bằng thấy trong đất nước này có bao nhiêu giáo dân là bấy nhiêu thiên thần và ơn phép rửa đã tạo nên nơi mọi ngƣời một tinh thần đã phát sinh nơi các tông đồ và các vị tử đạo thời Giáo hội sơ khai. Họ có một đức tin vững chắc đến nỗi không ai có thể nhổ ra khỏi lòng họ được”(Chương 10).

“Ở đây mới thật sốt sắng mừng đêm Chúa Giáng Sinh: nửa đêm thanh vắng, tôi cứ tưởng như thấy mọi ánh sáng thiên đàng. Tôi quyết rằng trong những nhà thờ đẹp nhất, trong những bản nhạc hay nhất bên trời Âu, chưa bao giờ tôi thấy có gì tương tự, không ai thấu được…”(Chương 36)

Đây là tình cảm của giáo dân dành cho Rhodes khi ông phải chia tay với họ:

Ngày cuối cùng đã tới, từ nửa đêm, nhà đông nghịt giáo dân. Họ theo chúng tôi và hôn chúng tôi, nước mắt ướt đẫm áo, mà chúng tôi chẳng biết làm gì, chỉ khóc như họ mà thôi. Khi đã nhiều nước mắt hơn lời nói, để khuyên họ kiên trì trong niềm tin yêu Chúa Kitô. Họ vẫn quỳ trên bờ, xin phép lành, nhiều người lội ngập tới thắt lưng không ai là không sụt sùi.

          Các bạn thử nghĩ xem ở đâu có tình có nghĩa như thế? Sau cùng khi chúng tôi bắt đầu kéo buồm thì từ hai bên lại òa lên khóc. Chúng tôi dán mắt nhìn theo hết sức có thể, lòng chúng tôi không bao giờ xa họ” (chương 11).

Rhodes đặc biệt viết về khát vọng tử đạo của giáo dân Việt. Ông miêu tả người giáo dân đối mặt với các cuộc bắt bớ, tra tấn đày ải và hành hình như là một ân phúc trọng đại Thiên Chúa ban cho. Bản thân ông cũng ao ước được như vậy nhưng ông cho rằng mình tội lỗi nên không xứng với ơn phúc trọng đại ấy. Rhodes đã viết những trang lẫm liệt về ơn tử đạo của Anrê Phú Yên, Inhaxu.

Xin đọc chương 32. Đây là hình ảnh thầy trò Rhodes ở trong ngục:

Trong sự nghèo khó này, trong ngục đen tối và hôi hám này, 9 thầy giảng và tôi như thấy một thiên đàng đích thực. Người ta sửa soạn gông cùm chúng tôi nóng lòng mong đợi, coi như điềm chắc chắn được tử đạo chúng tôi hằng ao ước

Rhodes nói về cái chết của ba học trò là Anrê Phú Yên, Inhaxu và Vincentê:

“Một đạo quân 200 người đưa họ ra một cánh đồng ở ngoài thành, tất cả chín ngƣời đeo gông đều vui vẻ bước đi và họ còn đi nhanh như có cánh. Inhaxu và Vincentê sắp chịu tử hình có nét mặt vui hơn bảy người chỉ bị cắt một ngón tay. Rồi bà mẹ của Inhaxu muốn tỏ cho người ta thấy lòng can tràng của những bà mẹ các vị tử đạo. Bà rẽ đám đông, mạnh bạo tiến đến chỗ con. Bà ôm con, không nói lời âu yếm mà chỉ khuyên con nhƣ bà mẹ Macabê.. Inhaxu xin mẹ cầu nguyện cho và không thể cầm được nước mắt khi vĩnh biệt mẹ”…

Rhodes hối tiếc vỉ không được phúc tử đạo:

“Đó là cái chết vinh quang của các bạn đồng sự của tôi, ba người chịu chết vì đạo ở xứ Đàng Trong, không kể những người ở các xứ khác.

Nhiều người xưng đức tin cách mạnh bạo trước mặt bạo chúa bạo vương mà vì không thể chịu chết được thì đành chịu mất một chi thể. Còn lại một mình không nhận được dấu vết nào của Chúa Kitô trong thân thể tôi. Tôi hết lòng cầu xin Người cho tôi xứng đáng chuộc lại mất mát đó và để rồi noi theo những đấng tự nhận là con cái tôi, nhưng bây giờ trở nên thầy dạy tôi và đấng phù hộ tôi”(Chương 51).

Và Rhodes luôn cầu xin Bề trên cử thêm linh mục đến giúp giáo dân Việt, bởi ở đất nước này, ơn gọi thì đông mà vắng bóng linh mục của Chúa:

Các tông đồ kiên trì giảng Phúc âm đƣa vào lƣới rất nhiều cá đến nỗi không thể kéo lên được, nên đã kêu gào trong thư gủi về bề trên ở Macao để xin phái các cha đến viện trợ, dù có gửi tới hai chục thì vẫn còn những mẻ cá lớn lao và tốt đẹp để săn sóc” (Chương 3).

Khi chia tay với các thầy giảng, Rhodes viết: “Tôi ban phép lành và hứa nếu tôi không trở lại được thì tôi hết sức vận động để kiếm các cha khác sớm tới, các ngài sẽ làm việc đắc lực hơn tôi nhiều”(Chương 50).

  1. Những bài học về sứ mệnh loan báo Tin Mừng của Rhodes

Rhodes nói về phương pháp truyền giáo của mình:

“Phương pháp tôi dùng là luận về linh hồn bất tử và sự sống đời sau, từ đó chứng minh về tính Thiên Chúa, về quan phòng của Người và dần dần mới đề cập tới mầu nhiệm khó hơn. Theo kinh nghiệm chúng tôi thấy, cách giảng dạy lương dân như thế rất có ích: tôi đã cắt nghĩa dài hơn trong cuốn “Phép Giảng Tám Ngày” trong đó tôi cố trình bày hết các chân lý căn bản phải giảng dạy lương dân. Ngoài ơn bên trong giúp cho công việc thu phục muôn dân, còn có nhiều phép lạ thường xuyên xảy ra trong lúc khai sinh giáo đoàn, làm cho công cuộc được thành đạt vẻ vang”. (Chương 9)

Hoàn cảnh của Rhodes truyền giáo của Rhodes ở Việt Nam là hoàn cảnh khó khăn. Chiến tranh Trịnh-Nguyễn (1627-1672) vừa mới nổ ra. Rhodes phải giao tiếp với nhà chúa cả Đàng Ngoài và Đàng Trong, phải đối đầu với những thủ đoạn bắt bớ hãm hại của nhiều lớp quan lại địa phương (đặc biệt là Ông Nghè Bộ), có cả sự gây khó của lương dân. Tầng lớp trí thức phong kiến cũng nhiều lần tranh cãi với Rhodes và nhiều lần Rhodes không thuyết phục được họ.

Trong tình cảnh ấy Rhodes thực hiện sứ mệnh của mình thế nào?

Căn bản là Rhodes sống lẩn lút trong dân, được giáo dân bảo vệ. Rhodes dạy đạo trong

dân, cử hành các bí tích, tổ chức các ngày lễ. Rhodes chuẩn bị tinh thần cho dân sẵn sàng khi bị bắt bớ tù đày. Đặc biệt Rhodes giáo dục tinh thần tử đạo. Để mở rộng hành động, Rhodes tổ chứ Hội Thầy Giảng (10 người), Inhaxu đứng đầu, làm lễ tuyên thệ rồi cử họ đi khắp nơi truyền giáo.

“Tôi lẩn trốn ở một tỉnh gọi là Hội An, nơi ngƣời Nhật đến buôn bán rất sầm uất. Họ ở đây để trao đổi hàng hóa. Tôi tìm cách lấy lòng viên bang trưởng là một người Nhật. ông đưa tôi đến Thuận Hóa có phủ chúa. tôi vào yết kiến chúa”.

Khi vào yết kiến chúa, Rhodes suy nghĩ:

Nói cho cùng Thiên Chúa đã thay đổi lòng dạ nhà chúa cũng như những người khác đã làm thay đổi bang trưởng ở Hội An. Nhà chúa niềm nở tiếp đãi tôi, niềm nở săn sóc tôi. Thế là đến lúc tôi phải nắm cơ hội thuận lợi Thiên Chúa ban cho để làm việc vì lòng kính mến Người” (Chương 14).

Ở mặt thế tục, Rhodes tìm mọi cách tiếp cận nhà chúa, cả Đàng Trong và Đàng ngoài, lấy lòng các quan địa phương, có khi nhờ cả người Nhật ở Hội An giúp đỡ. Cách làm này đã giúp Rhodes có được những năm tháng thong dong truyền giáo. Chỉ khi nghe lời các quan và người thân nói xấu đạo, chúa mới ngăn cấm và trục xuất Rhodes.

Đây là nghệ thuật ngoại giao khôn khéo của Rhodes:

“Người ta dẫn chúng tôi tới phủ chúa, lúc đó chỉ nghĩ tới chiến tranh. Chúa cầm đầu một đạo quân lớn gồm có 120 ngàn người và 400 thuyền chiến. Người Bồ đến lạy chúa và dâng phẩm vật. Tôi cũng đi với họ. Ngoài những phẩm vật khác, tôi dâng chúa một đồng hồ có bánh xe và một đồng hồ cát 30, nhưng chúa không ngó tới vì còn mải sửa soạn cộc hành quân chống chúa Đàng Trong. Chúa truyền cho chúng tôi đợi chúa trong tỉnh thành này, nơi chúa để lại hết các hành trang và cung phi. Chúa cũng cho một toán binh hộ vệ chúng tôi. Trong hai tháng trời, chúng tôi được thong dong thu lúa đầy kho Thiên Chúa, rửa tội cho 200 người.

Thật là được mùa dư dật. Khi chúa (chúa Trịnh) bại trận nặng nề trở về thì chúng tôi ra mắt. Lúc này trí óc thảnh thơi, chúa tiếp đón chúng tôi rất niềm nở. Tôi dâng chúa một cuốn sách về toán học, bì nạm chữ vàng, in bằng chữ hán. Nhân dịp tôi cũng cắt nghĩa cho chúa biết sự xoay vần trời đất cùng các tinh tú, từ đó tôi đề cập tới Đức Chúa Trời. Chúa để ý nghe suốt hai tiếng đồng hồ, ấy là đã mệt nhọc vì đường trường. Chúa tỏ ra hài lòng được nghe nói về đạo thánh của ta, chúa cũng mời tôi năng lui tới phủ chúa…

Tôi được hân hạnh chúa vời tới thuyền chúa nhiều lần và còn mời tôi ngồi bàn tiệc với chúa, theo kiểu dân xứ này, mỗi người một bàn riêng. Chúa để tôi ngồi cạnh chúa và có nhã ý cho tôi dùng những món thịt ngon nhất tốt nhất mà chúa có. Tôi phải vận động để được ở lại trong đất nước này, khi tàu người Bồ lên buồm trẩy đi. Tôi liền kiếm khắp nơi một người bạn nói dùm cho tôi một tiếng. Nhưng ai cũng chối từ, chỉ có Thiên Chúa nói cho tôi và cho tôi thành công không ai dự phần vào.

Chúa với tôi vào thuyền để chỉ dẫn cho chúa biết đồng hồ dùng vào việc gì và đồng hồ cát sử dụng thế nào, hai phẩm vật tôi đã dâng. Sau khi bái chào chúa, tôi lên dây đồng hồ và cho đánh giờ, và đồng thời tôi lất đồng hồ cát, cho chúa biết, khi tất cả cát rơi xuống đáy thì đồng hồ lại đánh giờ. Chúa thấy rất lạ và hỏi xem tôi có nói thật hay không. Tôi liền ngồi xa chiếc đồng hồ, vì sợ chúa tưởng tôi xờ mó vào đồng hồ. Tôi cũng bắt đầu giảng về nguyệt thực nhật thực, trong khi chờ đợi. Chúa vẫn đăm đăm vào đồng hồ cát và khi cát đã rơi xuống đáy thì chúa cầm trong tay nói: hỏng rồi, đồng hồ của khanh không đánh. Chúa vừa nói thì đồng hồ liền đánh giờ như tôi đã báo trước. Chúa lấy làm thích thú và chúa bảo tôi nếu tôi muôn ở đây hai năm với chúa, chúa vui lòng tiếp tôi nhiều lần nữa. Tôi thưa, không phải hai năm, mà suốt đời tôi, tôi rất hân hạnh được phụng sự một vị chúa cao sang. Thế là chúa cho chuẩn bị một thuyền chiến để đưa tôi đi đưa ngoạn với chúa, và tôi đã đi với chúa, được chúa ân cần quý mến”(Chương 8).

  1. Tại sao Rhodes kể nhiều chuyện “Phép lạ”

Tất cả những sự việc xảy ra không giải thích được bằng khoa học, Rhodes đều coi là “Phép lạ” của Thiên Chúa. Và vì thế, trong suốt Hành trình và truyền giáo, Rhodes nói đến nhiều “phép lạ”, trong đó có “phép lạ” Rhodes cầu xin được (Phép lạ Anrê) và nhiều “phép lạ” do giáo dân kể lại mà Rhodes cho là đáng tin cậy.

Phải chăng, Hành trình và truyền giáo, một tác phẩm có tính văn chương, Rhodes dùng “phép lạ” như một yếu tố tạo sự hấp dẫn (yếu tố kỳ ảo)? Cũng có thể Rhodes muốn dùng “phép lạ” để củng cố đức tin cho độc giả phương tây, như Kinh thánh đã kể lại nhiều phép lạ đức Giêsu đã làm.

Rhodes nói về mục đích kể phép lạ:

Tôi sẽ kể dài hơn một chút, nhưng không làm cho những kẻ lòng ngay trí chính chán nản, bởi vì đặc biệt tôi nói nhiều về những ơn Thiên Chúa ban cho giáo đoàn mới mẻ này, suốt chừng 5 năm tôi sung sướng ngụ ở đây. Thế nhưng tôi sợ nhắc đi nhắc lại cùng một sự việc bởi vì Chúa hằng ban cho rất nhiều ơn lành, nên tôi chỉ chọn những việc đặc biệt còn thì nói sơ qua về những việc khác”. (Chương 16)

Đâu là những câu chuyện Rhodes kể:

Tôi có thể nói hết sự thực về phép lạ tôi đã thấy và nghe người đáng tin kể lại. Với thánh giá Chúa, với nước phép, giáo dân tốt lành đã thông thường đuổi ma quỷ, chữa các thứ bệnh tật. Chỉ cho uống bốn năm giọt nước thánh mà chữa được nguời mù và cho hai người chết sống lại. Một viên quan lương dân có vợ theo Kitô giáo, đã đến xin tôi phái mấy người giáo dân tới một xã thuộc quyền ông, nơi đây có nhiều thuộc hạ của ông đang đau bệnh, mỗi ngày có người qua đời. Tôi liền sai 6 thầy giảng và căn dặn chớ nhận của người ta cho để tạ ơn vì đã khỏi bệnh. Họ ra đi mang theo vũ khí để đối phó với ma quỷ mà người ta cho là căn nguyên của bệnh tật tai ương. Vũ khí đó là cây thánh giá, nuớc phép, cành lá phép, nến phép và ảnh Đức Trinh Nữ mà tôi đã trao cho họ ngày chịu phép rửa tội. Họ ra đi, cầm thánh giá ở đầu, ở giữa và ở cuối xóm. Họ đến thăm bệnh nhân đọc kinh và cho bệnh nhân uống vài giọt nước phép. Không đầy năm ngày đã chữa khỏi 272 người” (Chương 9)

Đây là phép lạ người chết sống lại:

“Có một nữ giáo dân rất đạo đức tên là Benoite, mẹ cậu thanh niên mới được rửa tội được ít lâu nay tên là Benoit, bà này chết khi tôi đi vắng, vì thế không được xƣng tội. Người con hết sức đau khổ vì mất mẹ mà nhất là mẹ chưa được xưng tội trước khi chết. Cậu khóc lóc thảm thiệt, thật là sầu khổ đôi đường. Do ơn Chúa thúc đẩy, cậu xin giáo dân tới chia buồn đọc kinh cầu nguyện bên giường ngƣời  chết, xác đã cứng lạnh và bất động từ sáu giờ đồng hồ. Họ đến quỳ gối, Benoit đọc lớn tiếng kinh Lạy Cha và kinh Kính Mừng, rồi rảy nước thánh trên mặt mẹ, tức thì bà mở mắt, không những bà sống lại mà còn hoàn toàn khỏi bệnh. Bà chỗi dậy rồi cũng quỳ xuống với mọi người khác đồng thanh ngợi khenh Chúa đã ban cho phép lạ rất hiển nhiên. Mấy ngày sau khi tôi tới thôn đó thì cả mẹ cả co đều kể cho tôi nghe về ơn họ đã nhân được” (Chương 9).

Rhodes còn kể:

Tôi ở 3 tuần trong thuyền chiến, thời gian đủ cho 24 lính gác xin theo đạo, còn thuyền trưởng thì sau 15 ngày cũng xin theo, bởi vì thấy một phép lạ hiển nhiên. Số là có trận bão lớn làm nguy tới tính mạng, chúng tôi liền rảy một chút nước phép xuống biển, đọc kinh Lạy Cha, tức thì sóng yên biển lặng (chương 11)

Chương 18, Rhodes kể 3 trường hợp phép lạ:

Thầy lang Emmanuel được thấy thiên đàng, sau khi tỉnh lại, không còn thiết tha gì với trần gian.

Có một người lương thiện và rất đáng tin cậy, sau đó nói với Rodes rằng: trong suốt giờ giảng, ông trông thấy trên tay người giảng một trẻ thơ rất xinh đẹp với khuôn mặt vui vẻ, khi thì cười với thầy giảng, lúc thì cười với cử tọa và chiếu nhiều ánh sáng.

Việc thứ ba tôi muốn nói ở đây là việc giải thoát hai người đàn bà bị quỷ ám nhờ phép rửa. Việc xảy ra trong tỉnh Phú Yên”.

“Trong tỉnh Quảng Ngãi, tôi gặp một giáo dân tên là Mathêu. Ông được ơn riêng làm phép lạ, chữa đủ thứ bệnh và cho một ngƣời chết sống lại. Đây là một phần tôi nghe được qua những người đáng tin cậy (Chương 22)

Đây là phép lạ từ việc rửa tội cho lương dân của Mathêu:

“Có một thanh niên con nhà gia giáo ở tỉnh Baoban bị bệnh gần chết. Cha mẹ rất thương con vì là con một, đã hết sức chữa chạy và cậy các lương y cùng các phép phù thuỷ dị đoan. Nhưng sau khi thấy không cứu được con thì đành chạy đến xin thuốc của giáo dân. Mathêu biết cậu thanh niên rất thông thạo chữ Hán và hy vọng nếu anh khỏi thì anh có thể giúp chinh phục lương dân, ông liền đi tới nhà anh với những liều thuốc thông thường: nước phép và một ảnh thánh giá. Thấy bệnh nhân gần tắt thở, nhưng ông không thất vọng. Ông bắt đầu đọc kinh cầu hồn rồi đọc kinh cứu sống thân xác và thấy anh hầu như sắp qua đời, ông liền làm phép rửa tội cho anh. Tức thì bệnh nhân mở mắt và thấy mình hoàn toàn khỏi bậnh và đứng dậy ngay. Cả gia đình cùng cả tỉnh đều sửng sốt. Có mấy người xin theo đạo. Còn người bệnh này từ đó hằng tỏ lòng biết ơn vì đã được một phép lạ hiển nhiên”.

Một lần khác, Mathêu cũng được mời tới thăm một em gái bệnh nặng nhưng đã chết trước khi ông tới…điều làm ông buồn bực, cô bé đã chết khi chưa được chịu phép rửa tội. Nhưng người tôi tớ trung thành Chúa liền sốt sắng đọc kinh, xin Chúa cho cô bé sống thêm ít ra mấy phút thôi để có thời giờ chịu phép rửa tội và hưởng phúc thiên đàng. Lời ông cầu đã được Chúa nhận. Cô bé từ nửa ngày nay không động đậy, không còn sống, liền mở mắt ra và cứ mở như thế để như ra hiệu cho biết có thể rửa tội cho mình được. Mathêu hớn hở thi hành. Vừa hết nghi thức thì cô bé khép mắt lại và chết êm ái, sau khi nhận được thông hành bảo đảm về thiên quốc”(Chương 22).

Đặc biệt là những sự lạ sau cái chết của Anrê:

Ba ngày sau khi người mất, một vụ hỏa tai đã xảy ra trong thành Anrê bị hành hình. Nhà tù nơi giam người, tất cả khu phố người đi qua và mấy đền tà thần đều bị thiêu huỷ. Tôi sẽ nói sau về việc xảy ra trên biển. Còn khi tôi về Paris, đã có bốn người đau nặng cầu xin vị tử đạo vinh quang và đã được khỏi nhờ vào phép lạ, như sẽ thấy trong sách này” (Chương 32).

Trong Kinh thánh, đức Giêsu đã cảnh báo “chúng sẽ không được thấy dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giôna”. (Lc 11, 29). Nghĩa là, phép lạ đức Giêsu chết ba ngày và Phục sinh là phép lạ cả thể, không còn phép lạ nào nữa. Nhưng trong Hành trình và truyền giáo, Rhodes lại kể rất nhiều “phép lạ”, những “phép lạ” ấy thật khó tin cả về mặt đức tin và khoa học. Phải chăng đó là cớ cho những người chống đối Rhodes (xin đọc Thụy Khuê viết về chuyện của Andrê)?

  1. “Chuyện Anrê Phú Yên tử đạo”

Nhà nghiên cứu văn học-lịch sử Thụy Khuê đã viết riêng một bài về “Chuyện Anrê Phú

 Yên tử đạo” được Rhodes kể trong Hành trình và truyền giáo để dẫn đến một nhận định có tính kết luận về Rhodes:

Ông tin chắc rằng ông có quyền viết bất cứ điều gì về cái xứ chỉ biết «tôn thờ ma quỷ» này, cũng như ông bịa đặt chuyện Thích Ca một cách vô tội vạ, miễn sao Tòa Thánh động lòng, thúc đẩy vua Pháp đem quân chinh phục phương Đông[[27]].

Thụy Khuê thuật lại chuyện Anrê tử đạo theo nguyên bản tiếng Pháp của Rhodes, không theo bản dịch của Hồng Nhuệ-Nguyễn Khắc Xuyên, vì bà cho Hồng Nhuệ dịch gian. Từ đây bà phân tích những “Những điểm vô lý trong chuyện André tử đạo”:

1- André bị bắt vì lý do gì?

            2- Lý do André bị xử tử?

            3- Tại sao André và Ignace không có tên Việt?

            4- Tạo sao thành phố bị đốt cháy không có tên?”

            5- Tại sao ngày ra tòa, ngày hành hình André, không được ghi lại trong sách?

Rhodes đã dàn cảnh thiếu niên André bị Trấn thủ Quảng Nam bắt và tức khắc tuyên án không nghe biện bác gì cả. Màn Ignace đấu khẩu với chúa Thượng, cũng rất lạ lùng:

6- Chúa Thượng có thực sự cấm đạo tàn bạo hay không?

            7- De Rhodes bài trí cái chết của André thành tuẫn đạo.

Thụy Khuê cũng tra cứu lịch sử về các nhân vật Trấn thủ Quảng Nam, Ongnghebo (Ông Nghè Bộ) và Tống Thị là những nhân vật gây tội ác cho giáo dân để chỉ ra mục đích Rhodes đánh tráo nhân vật lịch sử và nhân vật trong tác phẩm. Bà cũng tố cáo các nhà nghiên cứu Phạm Đình Khiêm và Hồng Nhuệ đã chế biến và che đậy những sơ hở của de Rhodes.

Kết luận của Thụy Khuê là, “Chuyện Anrê Phú yên tử đạo “Chuyện bịa đặt”, “như ông bịa đặt chuyện Thích Ca”. Rhodes dùng chuyện Anrê bị sát hại để tố cáo tội ác của chúa Nguyễn, từ đó làm cho “Tòa Thánh động lòng, thúc đẩy vua Pháp đem quân chinh phục phương Đông” (đd).

Về sâu xa, trong cả loạt bài viết về Rhodes, Thụy Khuê chứng minh Rhodes có liên hệ đến việc Pháp xâm lược Việt Nam. Bà nhiều lần nhắc đến luận điểm: Rhodes làm cho “Tòa Thánh động lòng, thúc đẩy vua Pháp đem quân chinh phục phương Đông”.

Thực tế lịch sử và văn bản của Rhodes chứng minh ngược lại. Nỗ lực của Rhodes là xin Tòa thánh sai thêm các linh mục sang Việt Nam. Ông dùng dụ ngôn của Kinh thánh để nói về nhu cầu lớn lao cần có thêm linh mục phục vụ việc truyền giáo. Ông viết:

“Các tông đồ kiên trì giảng Phúc âm đưa vào lưới rất nhiều cá đến nỗi không thể kéo lên được, nên đã kêu gào trong thư gủi về bề trên ở Macao để xin phái các cha đến viện trợ, dù có gửi tới hai chục thì vẫn còn những mẻ cá lớn lao và tốt đẹp để săn sóc” (Chương 3).

Ba năm sau khi Rhodes đến Ba Tư (1655), ngày 29/7/1658, Giáo hoàng Alexanđê VII ban hành Đoản sắc bổ nhiệm các tân Giám mục Lambert de la MotteFrançois Pallu làm Đại diện Tông tòa tại Đại Việt. Ngày 27.11.1660, Đức Cha Pierre Lambert và hai linh mục thừa sai rời Pháp lên đường sang Việt Nam. Ngày 02.01.1662, Đức cha Pallu rời Pháp đi Việt Nam với bảy linh mục và hai giáo dân.

Tòa thánh không hề “thúc giục Pháp gửi đạo quân nào sang chinh phục phương đông”.

“Sự thật lịch sử” về “Chuyện Anrê Phú Yên tử đạo

Có các sử liệu sau (xin đọc trên trang cùa Linh mục Antôn Nguyễn Trường Thăng):

Ngày 01/8/1644, tại Hội An, Rhodes có “Bản tường trình gửi các Bề trên ở Ma cao”[[28]] 5 ngày sau khi Anrê bị sát hại.

Văn bản nhật ký của Học viện Macau vào tháng 8/1644; tường thuật cuộc đón tiếp thi thể tại Macau do thầy Antonio Torres, tháng 10/1644.

Không đầy sáu tháng sau cái chết của thầy Giảng Anrê Phú Yên (Ranran), giáo quyền đã mở cuộc điều tra về án tử đạo của thầy. Sau đây là lời mở đầu của linh mục Gaspar de Amaral:

Tôi, Gaspar de Amaral, phó bề trên tỉnh dòng vùng Nhật Bản của các tu sĩ Dòng Tên, gởi đến tất cả mọi người lời cầu chúc sức khoẻ trong Chúa chúng ta. Theo những thông tin mà tôi đã nhận được từ nước Đàng Trong, vùng đất thuộc toà Giám Mục Malaca (và việc chăm sóc mục vụ cho dân Kitô giáo được trao phó cho các cha Dòng Tên tỉnh dòng Nhật Bản). Trong năm này (ngày 26 tháng 7 năm 1644, một thanh niên tuổi 19, người nước Đàng Trong, tên là Anrê  đã chết vì đức tin chí thánh của chúng ta, vào lúc đó thầy là một thầy giảng giáo lý của Cha Alexandre Rhodes, là tu sĩ có bốn lời khấn trong Dòng Tên, việc chăm sóc dân Kitô giáo được trao phó cho ngài; và thầy Anrê vốn ở trong nhà của các cha Dòng, tại đó thầy bị bắt, đó là nơi thầy đã phục vụ và giúp đỡ theo khả năng của mình cho việc đem những người đồng bào trở lại đạo; và thi thể của thầy được đặt ở trường trung học Mẹ Thiên Chúa. Để người ta có thể tiến hành những thủ tục và những thông tin cần thiết và đúng pháp lý bằng con đường bình thường về một vị tử đạo, để gởi hồ sơ về cho Toà Thánh Rôma, nhằm tiến hành công bố việc tử đạo, phong chân phước và phong thánh, hay để gây hiệu quả khác hữu ích cho việc phụng sự Thiên Chúa; dựa vào những quyền hạn mà tôi vốn có, tôi tự coi mình như chủ sự trong vụ án tử đạo này, một cách tối ưu nhất theo đúng những quy định nghiêm ngặt của luật, thầy Manoel de Figueiredo, tu sĩ của cùng Dòng; tôi ban cho anh tất cả những quyền hạn mà tôi có và tôi có thể ủy cho anh về mặt pháp lý. Để làm tin tôi đã trao cho anh bức thư giới thiệu, do chính tôi ký tên và đóng dấu, tại Trường trung học Mẹ Thiên Chúa của Dòng Tên ở thành phố Macao, ngày mười hai tháng mười hai năm 1644 – Gaspar de Amaral “[[29]]

23 bản cung khai có tuyên thệ được Toà Án của Giáo Hội ở Macao[[30]], trong đó có 7 bản do những chứng nhân tận mắt kể lại. Các bản cung khai khác do 16 nhân chứng gồm những thương gia, thuỷ thủ, binh sĩ, đến Hội An (Faifo) trên chiếc tàu do thuyền trưởng João de Rezende de Figueiroa điều khiển. Vì thế, họ là những người ở gần kề nơi hành quyết Thầy Anrê, và do đó, họ biết được cuộc hành quyết do một số nhân chứng tận mắt, và điều đó xảy ra không phải từ lâu, nhưng chỉ mới vài tiếng đồng hồ sau các biến cố đau thương.[[31]]

Đọc các biên bản của 23 người chứng, so sánh với “Chuyện Anrê Phú Yên tử đạo”do Rhodes kể trong Hành trình và truyền giáo người đọc không thấy có bất cứ sự sai biệt nào:

Rhodes kể:

Thấy không còn cách cứu Anrê, tôi đành sửa soạn cho thầy chết như một giáo dân chân chính và người chứng đích thực. Tôi không nói về những gì tôi với thầy làm ở trong ngục, sợ quá dài dòng. Khi thấy tôi và sau khi người ta lên án tử hình, thì thầy hớn hở lạ lùng. Thầy nói với đám đông tới thăm thầy, tất cả những điều một thánh Laurensô đã nói khi người sẵn sàng bị nướng chín trên than hồng. Thầy xưng tội, quỳ xuống cầu nguyện, vĩnh biệt mọi ngƣời, rồi nhanh nhẹn theo toán lính dẫn thầy tới thửa ruộng cách thành phố chừng nửa dặm. Tôi hằng ở bên thầy và tôi không theo kịp, thầy đi rất nhanh, mặc dầu đeo chiếc gông nặng. Tới nơi toàn thắng, thầy quỳ xuống để chiến đấu cho can đảm hơn.

Lính gác chung quanh. Chúng không cho tôi ở bên trong vòng lính, nhưng viên đội trưởng cho phép tôi vào và đứng cạnh thầy. Thầy vẫn quỳ dưới đất, mắt nhìn trời, miệng luôn hé mở và đọc tên Chúa Giêsu. Một tên lính lấy giáo đâm thầy từ phía lưng, thâu qua ngực chừng hai bàn tay. Lúc đó thầy Anrê nhìn tôi âu yếm như thể vĩnh biệt tôi. Tôi bảo thầy hãy nhìn lên trời nơi thầy sắp tới và có Chúa Giêsu đón thầy. Thầy ngước mắt lên cao và không nhìn xuống nữa. Cũng tên lính rút giáo ra, đâm lần thứ hai, rồi đâm lại lần nữa như thể muốn tìm trái tim thầy. Nhưng người vô tội vẫn không núng, thật là kỳ diệu. Sau cùng tên đao phủ thấy lưỡi giáo không làm cho thầy lăn xuống đất, liền lấy mã tấu chém cổ, nhưng vẫn chưa xong, phải thêm nhát nữa làm đứt hẳn cổ, đầu rơi về bên tay phải chỉ còn vướng mảnh da.

Nhưng tôi nghe rất rõ cùng lúc đầu rơi khỏi cổ, thì tên thánh Chúa Giêsu không phải từ miệng thầy thốt ra mà qua vết thương ở cổ, và cùng lúc hồn bay về trời thì xác lăn xuống đất. Toán lính rút lui để lại di vật thánh. Chúng tôi đến ôm trong tay rồi đặt vào một cỗ ván đẹp, thấm hết máu, làm đám tang không nguy nga trọng thể nhƣng sốt sắng cho đấng thánh tử đạo…”(Chương  32)

(Biên bản) Nhân chứng thứ nhất: João de Rezende de Figuciroa (thuyền trưởng) trả lời câu hỏi thứ ba:

“Nhân chứng trả lời rằng: quan Ông Nghè Bộ, chức quan tương đương với Quan Tổng Đốc, đã tuyên án tử hình thầy Anrê, dựa vào lệnh nhà vua ban, vì lý do thầy là Kitô hữu; chính vị quan này đã nhắc lại cho nhân chứng rằng câu hỏi ông đã đưa ra cho thầy Anrê liên quan đến Đạo mà thầy tuyên xưng, và thầy Anrê đã trả lời rằng đó là Đạo Chúa Kitô, và thầy sẵn sàng chết và chịu đau khổ vì Đạo đó; và rất muốn có nhiều mạng sống để hiến dâng tất cả vì Đạo mà thầy tuyên xưng; quá tức giận và phẩn nộ vì Anrê dám trả lời kiểu đó; Ông nói rằng nếu thầy Anrê trả lời ông rằng thầy hạ mình phục dịch Cha Alexandre vì nghèo khổ, và vì đĩa cơm người ta ban cho, thì nhà quan tha cho ngay, nhưng vì Anrê dám trả lời như trên nên ông không thể ân xá; tất cả những điều đó, chính vị quan đã kể và đã lặp lại cho nhân chứng. Như thế nhà quan tuyên án tử hình tại Kẻ Chàm (Dinh trấn Thanh Chiêm), và thầy Anrê đã sẵn lòng đón nhận bản án; và chính nhân chứng đã nhìn thấy thầy Anrê và đã nói chuyện với thầy tại nơi giam giữ, và chứng nhận rằng thầy Anrê rất hài lòng với cái tin người ta mang đến cho thầy, thầy phải chết.

Và ngày 26 tháng 7, vào buổi chiều trước khi mặt trời lặn, vào năm 1644 này, thầy Anrê bị quân lính với mã tấu và giáo hai mũi giải đi công khai từ nhà tù đó, còn Anrê thì đi giữa họ bị xích và đeo gông như đã nói, đi đến một nơi không xa lắm; và ở đó khi vừa đến nơi thầy ngồi xuống và sau đó quì lên lúc người ta muốn lấy mạng sống thầy; và khi những lý hình lấy gông khỏi cổ thì thầy Anrê tuyên bố rằng thầy sung sướng chịu chết vì thầy đang hiến dâng mạng sống mình cho Đấng đã hiến mạng sống cho thầy, và tất cả mọi người phải biết rằng thầy không chết như một tên trộm cắp, cũng không vì một tội ác nào mà thầy đã phạm, nhưng thầy bị giết chết chỉ vì thầy là người Kitô hữu. Và bởi vì thầy cứ quỳ luôn như thế nên một người lính cầm giáo đã đâm thầy một nhát, đó là một loại giáo có đầu nhọn bằng sắc dài ba gang tay và rộng ba ngón tay, và đã tạo ra một vết thương sâu ở bên sườn trái, rồi đâm tiếp lần thứ hai vào cùng một chỗ đó, thầy Anrê ngã xuống đất. Và thầy nằm như vậy, một người lính khác tiến đến cắt cổ, trong khi thầy Anrê chỉ kêu tên Giêsu và Maria. Và chính nhân chứng đã nghe Francisco de Azevedo và Antonio Mendes người Bồ Đào Nha nói rằng, ngay cả sau khi người ta cắt cổ thầy, người ta vẫn còn nghe danh Thánh Giêsu trong hơi thở thoát ra cùng với máu”(đd. Xin đọc giả đọc thêm các bản ghi lời khai của các nhân chưng khác theo nguồn đã dân).

So sánh hai văn bản trên, rõ ràng Rhodes đã tường thuật rất trung thực về cái chết của Anrê. Cảm hứng lãng mạn của Rhodes chi phối cách viết khiến cho Thụy Khuê, khi đọc “Chuyện Anrê Phú Yên tử đạo” bằng con mắt truy cứu hiện thực đã lầm lẫn. Bà tra hỏi những điều bút pháp lãng mạn không quan tâm.

23 tường trình của các chứng nhân có lời tuyên thệ trên sách Phúc Âm, là những văn bản lịch sử có tính pháp lý, đủ trả lời cho Thụy Khuê về sự trung thực của Rhodes. Cuộc tử đạo của thầy giảng Anrê Phú Yên không phải là sự bịa đặt của Rhodes như Thụy Khuê đã kết luận..

Những vấn đề Thụy Khuê đặt ra về “Chuyện Anrê Phú Yên tử đạo” chỉ là giả tưởng, hàm hồ và thiên kiến. Bà nghiên cứu chưa đến nơi đến chốn. Bà thú nhận: Onghebo hiện chúng tôi chưa tìm được là ai”. Bà nỗ lực đưa ra chứng cớ để kết tội Rhodes. Rằng, Rhodes làm thế là để gây ấn tượng với Tòa thánh về tội ác của chúa Nguyễn. Rhodes thỉnh nguyện “Tòa Thánh thúc giục Pháp đem quân chinh phục phương đông”. Từ đó bà kết tội Rhodes có quan hệ với việc Pháp xâm lược Việt Nam.

Thực tế lịch sử là mãi năm 1858 Pháp mới xâm lược Việt Nam. Rhodes qua đời 200 năm trước đó (1660), chẳng có quan hệ gì với thực dân Pháp. Rhodes chỉ có quan hệ với người Bồ Đào Nha, với Roma trong việc truyền giáo.

Thụy Khuê không có năng lực giải mã văn bản, lại không “thành ý, chính tâm”(chữ của Nho gia) nên  dù bà có nỗ lực bao nhiêu thì cũng không tránh được thất bại.

TẠM KẾT

Có một câu hỏi chưa có lời đáp. Tại sao linh mục Alexandre de Rhodes, nhà truyền giáo dòng Tên, chưa được Giáo hội phong thánh?

Rhodes trong tác phẩm, hiện lên như một vị thừa sai khôn ngoan, nhiệt thành, tài giỏi, sống giữa đoàn chiên, đương đầu với bầy sói, sẵn sàng hy sinh mạng sống cho đạo thánh. Ông nhìn thấy sự quan phòng của Thiên Chúa trong mọi biến động, cả những thành công và những thất bại. Trong việc thực hiện sứ mệnh, ông chinh phục được nhiều linh hồn cho Chúa. Ông sống nhân đức mến Chúa yêu người, đức vâng lời triệt để. Tác phẩm của ông có những đóng góp rất giá trị cho giáo hội và cho đời sống văn hóa Việt…Vậy điều gì cản trở việc phong thánh cho ông?

Đó là việc riêng của Giáo hội, chúng ta không nên lạm bàn.

Song vì có người đặt vấn đề, chúng ta thử tìm lời giải trong tác phẩm của Rhodes.

Phải chăng, trong trong Phép Giảng Tám Ngày, để hội nhập văn hóa, có những lúc Rhodes diễn giải tín lý đạo Chúa không đúng với lời dạy của Giáo hội (đã trình bày ở trên)? Phải chăng, trong Hành trình và truyền giáo, ông nói quá nhiều đến “phép lạ” mà vũ khí của ông và các học trò chỉ là Thánh giá và nước phép, khiến cho những kẻ chống đối gọi ông là phù thủy (thay hình thức mê tín cũ bằng hình thức mê tín mới), và vì thế, ông đã không thể chinh phục được giới trí thức (Chương 29, 30, 31). Và ngay trong việc giảng đạo, ông đã không làm cho đạo mới hội nhập được với đạo truyền thống. Chương 11, ông nói về các lý do người lương dân chống lại đạo mới. Luật một vợ một chồng của đạo mới cản trở tục đa thê khiến cho “chúa ra sắc lệnh cấm tất cả thần dân không được nghe đạo mới đưa từ trời Âu tới, bởi vì đạo có hại cho tiền đồ Nhà nước và thuần phong mỹ tục toàn dân”!

Người đời gắn Rhodes với những vấn đề chính trị (việc Pháp xâm lược Việt Nam) để kết tội ông, để kết tội đạo Công giáo ở Việt Nam. Đó là điều không đúng với Rhodes và vời thực tế lịch sử Việt. Ông là một linh mục dòng Tên. Cả cuộc đời ông là hiện thân của nhân đức mến Chúa yêu người và đức vâng lời trong sứ mệnh loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu. Những tác phẩm của ông cũng chỉ để thực hiện nhiệm vụ này.

Rhodes để lại cho hậu thế rất nhiều giá trị và nhiều bài học suy gẫm.

Tháng 4/ 2025

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

[1] Thụy Khuê: Lịch sử truyền giáo và chữ Quốc ngữChương 5, phần IV: Thư xin triều đình Pháp chinh phục phương Đông http://thuykhue.free.fr/TruyenGiao-QuocNgu/index.html.

[2] Roland Jacques- Les missionnaires portugais et les débuts de l’Église catholique au Viêt-nam- Bản dịch Việt ngữ : Nguyễn Đăng Trúc, Trần Duy Nhiên, Nguyễn Bá Tùng, Hồ Ngọc Tâm-Định Hướng tùng thư 2024

[3] Phạm Thị Kiều Ly- Lịch sử chữ Quốc ngữ 1615-1919Tác phẩm nguyên là luận án tiến sĩ lịch sử ngôn ngữ được bảo vệ ở Đại học Sorbonne Nouvelle – Paris 3 năm 2018 của TS. Phạm Thị Kiều Ly

[4] TS Phạm Thị Kiều Ly: “Trước đây khi chúng ta nói đến các Thừa sai đóng góp cho sự hình thành chữ tiền Quốc ngữ ở thời kỳ đầu, chúng ta thường nói tới Alexandre de Rhodes, Gaspar do Amaral, António Barbosa. Nhưng với những điểm cần lưu ý ở trên, tôi nghĩ rằng vai trò của António de Fontes rất quan trọng…Cũng cần nhấn mạnh việc tổ chức các trường Dòng đóng góp rất quan trọng vào việc giảng dạy và gìn giữ chữ tiền Quốc ngữ trong vòng gần ba trăm năm trong lòng giáo hội. Chính các linh mục, chủng sinh người Việt góp phần to lớn vào việc gìn giữ, phát triển chữ tiền Quốc ngữ”- https://tiasang.com.vn/khoa-hoc-cong-nghe/lich-su-chu-quoc-ngu-tu-1615-den-1861-qua-trinh-latinh-hoa-tieng-viet-trong-trao-luu-ngu-hoc-truyen-giao-20834/

  1. T.S. Trần Quốc Anh* ĐH Santa Clara, California: Các giáo sĩ Dòng Tên và công cuộc La Tinh Hoá Tiếng Việt ở thế kỷ 17-18. https://sjjs.edu.vn/cac-giao-si-dong-ten-va-cong-cuoc-la-tinh-hoa-tieng-viet-o-the-ky-17-18/

[5]Từ điển Việt – Bồ – La”, Nxb Khoa Học Xã Hội, tháng 3, 1991, phần Việt ngữ, tr. 3).

Dẫn theo Đỗ Quang Chính: “latinam etiam linguam Eminentissumorum jussu Cardinalium addidi quae, praeter alia commoda,vsui fit ipsis indigenis ad linguam latinam addiscendam (Tôi cũng đã thêm tiếng Latin theo lệnh của các Hồng y, ngoài những lợi ích khác, việc học tiếng Latin còn rất hữu ích cho người bản xứ.- Rhodes, Dictionarium, cuối Lời tựa). Lịch sử chữ quốc ngữ (1620-1659) , Tủ sách Ra Khơi, Sài gòn 1972, tr.85

 

[6] A.Rhodes: Hành trình và truyền giáo. Chương 3: Lần thứ nhứt tôi được phái tới Đàng Trong. Hồng Nhuệ-Nguyễn Khắc Xuyên dịch

[7] Thụy Khuê: “Lịch sử truyền giáo và chữ Quốc ngữ”, chương 5, phần IV, “Thư xin triều đình Pháp chinh phục phương Đông”. http://thuykhue.free.fr/TruyenGiao-QuocNgu/index.html

[8] (Thụy Khuê. “Lịch sử truyền giáo và chữ Quốc ngữ”, Alexandre de Rhodes. IV. Thư xin triều đình Pháp chinh phục phương Đông)

[9] Thụy Khuê: Lịch sử truyền giáo và chữ quốc ngữ. Chương 4: Alexandre de Rhodes-IV- Thư xin triều đình Pháp chinh phục phương Đông

 

[10] Hoành Sơn S.J: “Sự thật về điều gọi là “Lời thề dòng Tên

Sự thật về điều gọi là “Lời thề Dòng Tên”

[11] https://sachhiem.net/BUIKHA/BuiKha_Rhodes_Main.php

 

 

[12] Bùi Kha. Alexandre de Rghodes công và tội- nguồn: báo Hồn Việt tại TP HCM, Số 17, tháng 11.2008

 

[13] Phạm Văn Hường: Đi tìm nguồn gốc chữ quốc ngữ

https://sachhiem.net/VANHOC/PhamVHuong.php

[14] T.S. Trần Quốc Anh* ĐH Santa Clara, California: Các giáo sĩ Dòng Tên và công cuộc La Tinh Hoá Tiếng Việt ở thế kỷ 17-18- Bài thuyết trình tại hội thảo khoa học“Bình Định và Chữ Quốc Ngữ”, Quy Nhơn, 13/1/2016. https://sjjs.edu.vn/cac-giao-si-dong-ten-va-cong-cuoc-la-tinh-hoa-tieng-viet-o-the-ky-17-18/

 

 

 

 

[15] Tu sĩ Dòng Tên ALEXANDRE DE RHODES từ trần

https://dongten.net/tu-si-dong-ten-alexandre-de-rhodes-tu-tran/4/

[16] Nguyễn Đình Đầu: Về bài báo vu khống và phỉ báng cha Ðắc Lộ

Nguồn: Nguyệt san Công Giáo Và Dân Tộc số 145 tháng 1.2007

https://vntaiwan.catholic.org.tw/07news/7news129.htm

[17] Trần Duy Nhiên và Roland Jacques:Phản hồi bài viết của TS Phạm Văn Hường: Đi tìm nguồn gốc chữ quốc ngữ”. https://www.vietcatholic.net/News/Html/41694.htm

[18] Roland Jacques, quốc tịch Pháp (Dương Hữu Nhân), khoa trưởng khoa Giáo Luật trường Đại Học Saint Paul, Ottawa, Tiến sĩ lịch sử luật – Đại Học Paris XI, Tiến sĩ giáo luật – Institut Catholique. Ông là một nhà nghiên cứu có uy tín về chữ quốc ngữ. Từ năm 1997, Tập sa Định Hướng đã đăng hầu hết những bài viết của ông, viết về các nhà thừa sai Bồ Đào Nha và tiến trình hình thành chữ quốc ngữ. https://www.vietcatholic.net/News/Html/41694.htm

-Đỗ Quang Chính: Lịch sử chữ quốc ngữ 1620-1659. Tủ sách Ra Khôi, Sài gòn 1972

-TS Phạm Thị Kiều Ly. ‘Lịch sử chữ Quốc ngữ (1615-1919)’ (Omega+ và NXB Văn học ấn hành. 2024).
– Rloand Jacques: “Les Missionnaires portugais et les débuts de l’Eglise catholiques au Việt Nam”. Định Hướng tùng thư 2004.

 

[19]J’ai cru que la France, étant le plus pieux royaume de monde, me fournirait plusieurs soldats qui aillent à la conquête de tout l’Orient, pour l’assujetter à Jésus Christ, et particulièrement que j’y trouverais moyen d’avoir des Évêques, qui fussent nos Pères et nos Maitres en ces Églises. Je suis soirti de Rome à ce dessein le 11e Septembre de l’année 1652 après avois baisé les pieds du Pape”.

[20] Gm Giuse Đỗ Mạnh Hùng: Công cuộc truyền giáo của hai Giám mục tiên khởi tại giáo hội Việt Nam

Ngày 27.11.1660, Đức Cha Pierre Lambert và hai linh mục thừa sai rời Pháp lên đường sang Việt Nam

Ngày 02.01.1662, Đức cha Pallu rời Pháp đi Việt Nam

https://www.tonggiaophanhanoi.org/cong-cuoc-truyen-giao-cua-hai-giam-muc-tien-khoi-tai-giao-hoi-viet-nam/

[21] Chương Thâu: Từ một câu chữ của Alexandre de Rhodes đến các dẫn dụng khác nhau  

Từ một câu chữ của Alexandre de Rhodes đến các dẫn dụng khác nhau  

[22] Phạm Thị Kiều Ly: Lịch sử chữ Quốc ngữ từ 1615 đến 1861: Quá trình La-tinh hóa tiếng Việt trong trào lưu ngữ học truyền giáo. Chú thích số 5. https://tiasang.com.vn/khoa-hoc-cong-nghe/lich-su-chu-quoc-ngu-tu-1615-den-1861-qua-trinh-latinh-hoa-tieng-viet-trong-trao-luu-ngu-hoc-truyen-giao-20834/

[23] TS Trần Thanh Ái: Alexandre de Rhodes có nói như thế không? Tạp chí Xưa và Nay, số tháng 5 năm 2019, công bố

trên Nghiên cứu Lịch sử ngày 5 tháng 8 năm 2019

Alexandre de Rhodes có nói như thế không?

 

 

[24] http://thuykhue.free.fr/TruyenGiao-QuocNgu/index.html. Chương 5 (IV).

[25] Dòng tên: Tu sĩ Alexandre de Rhodes từ trần. https://dongten.net/tu-si-dong-ten-alexandre-de-rhodes-tu-tran/7/

-Khổng Thành Ngọc: Cha Alexandre de Rhodes, một gương mặt truyền giáo

https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/cha-alexandre-de-rhodes-mot-guong-mat-truyen-giao-40173

 

 

[26] Tổng giáo phận Sài gòn: Dân số Công giáo tại Châu Á. https://tgpsaigon.net/bai-viet/dan-so-cong-giao-tai-chau-a-42547

[27] Thụy Khuê: Truyền giáo và chữ quốc ngữ. Chương 5, Alexandre de Rhodes-III. Chuyện An rê tử đạo

http://thuykhue.free.fr/TruyenGiao-QuocNgu/Ch05-DeRhodes-3.html

[28] Bản tường trình của Rhodes gửi các Bề trên ở Ma Cao. Lm. Rloand Jacques-Dương Hữu Nhân, OMI-Lm. Giuse Trần Đức Anh, OP, chuyển ngữ. https://antontruongthang.wordpress.com/a-gio-lan-thu-371-a-thanh-anre-phu-yen-1644-2015/nhung-loi-va-nhung-thai-do-dang-ghi-nho-cua-chan-phuoc-anre-phu-yen-qua-cac-nhan-chung-lm-roland-jacques-omi/

[29] Biên bản nhân chứng thứ nhất: João de Rezende de Figuciroa

    (Nguồn: https://antontruongthang.wordpress.com/a-thanh-anre/148-2/)

[30] Xin đọc 23 Biên bản của các nhân chứng về cuộc tử đạo của Anrê.

(Nguồn: https://antontruongthang.wordpress.com/a-thanh-anre/148-2/)

[31] Bài viết của Lm. Paolo Molinari, S.J. – Thỉnh nguyện viên án phong chân phước cho Thầy Giảng Anrê, Lm. Giuse Trần Đức Anh, O.P. chuyển ý. http://ttntt.free.fr/archive/AnrePHUYEN.html

 

 

Loading

Đánh giá bài viết
call Hotline 1 0798287075 call Hotline 2 0798 287 075 facebook Fanpage Chat FB zalo Chat Zalo youtube Youtube Tiktok Tiktok