JÊRONIMO MAJORICA (1591-1656) – Đầu nguồn văn xuôi chữ Nôm Công giáo thế kỷ 17
Bùi Công Thuấn
***
Cho đến nay (2025), các nhà nghiên cứu đã hình dung được những đóng góp của Jêronimo Majorica trong việc truyền giáo và vị trí của ông về văn xuôi chữ Nôm trong nền văn học dân tộc thế kỷ 17. Có những thông tin cho biết Majorica đã viết 48 cuốn sách (?), trong đó Thiên Chúa Thánh Giáo Khải Mông (天主聖教啟蒙) và Các Thánh Truyện (各聖傳) là những tác phẩm tiêu biểu. (Lưu ý: tên Jêronimo Majorica cũng viết là Maiorica hoặc Mayorica. Tên thánh theo tiếng Bồ Đào Nha là Jêronimo).
HÀNH TRÌNH TÌM KIẾM MAJORICA
Georg Schurhammer S.J. [[1]] là sử gia về Truyền giáo ở Châu Á. Ông đặc biệt am hiểu về thánh Francisco Xavier. Năm 1951 ông viết bài “Nền Văn Chương Công giáo về Phanxicô Xaviê tại Việt Nam”[[2]]. Schurhammer nhắc đến hành trạng và sáng tác của 3 người: Cha Jêronimo Majorica, S.J.(1591-1656), João Ketlâm, cũng gọi là João Vuang (1588-1663)[[3]] và Philiphô Rôsariô cũng gọi là Philipê Bỉnh (1759-1833).
Schurhammer nói về mục đích viết:
“Chúng tôi xin giới hạn bài khảo cứu này với ba tác giả của phái bộ truyền giáo cổ Dòng Tên ở những xứ nói tiếng Việt. Các tác phẩm văn chương của những người này ít được biết hoặc không được biết tới, cho đến ngày nay”.
Bài viết gợi cảm hứng cho nhiều nhà nghiên cứu đi sau.
Có thể kể đến:
Người Việt Nam đầu tiên viết về Majorica là Philiphê Bỉnh (1759 – 1833)[[4]]. Trong “Sách sổ sang chép các việc” Philiphê Bỉnh viết (tr. 139): “Jeronimo Hội sĩ Maio thuật. Hoặc ai có hồ nghi, thì tôi cắt nghĩa tiếng ấy, thế này rằng “Thầy dòng D.C.J. tên là Jeronimo Maiôrica đã làm sách ấy cùng nhiều sách khác tiếng nước Anam thì đã chép trong truyện mà in ra ở Roma làm một cùng truyện thầy cả Alexandre Rhode, là kẻ đến giảng đạo trước hết mà cũng làm những việc gì trong nước Anam thì chép vào truyện ông ấy để cho thiên hạ được biết những công nghiệp người đã làm ở trong nước ta. Thầy cả Jeronimo thì qua đời ngày 24 tháng Giêng năm 1656 mà thầy cả Alexandre thì qua đời ngày mùng 5 tháng 11 năm 1660. Hai ông đều giảng đạo nước Nhật Bản, nước Champa mà nước Anam thì Đàng Trong chí Đàng Ngoài”. Philiphê Bỉnh cũng viết về Majoria trong “Truyện Nước Annam Đàng Ngoài chí Đàng traõ “(từ trang 28 đến hết trang 33).[ghi chú: dòng D.C.J là dòng Đức Chúa Giêsu-dòng Tên].
(GS Hoàng Xuân Hãn)
Giáo sư Hoàng Xuân Hãn (1908 – 1996) là một chuyên gia nghiên cứu chữ Nôm. Năm 1953, ông sống ở Pháp. Nhân đọc bài của Georg Schurhammer, ông tìm thấy trong các kho Trung Quốc của Thư viện Quốc gia Pháp ở Paris (Bibliothèque nationale de France, viết tắt là BnF) các bản thảo của Majorica. Hoàng Xuân Hãn viết bài: “Girolamo Maiorica, ses œuvres en langue Vietnamienne conserves à la Bibliothèque Nationale de Paris”(“Girolamo Maiorica, các tác phẩm viết bằng chữ Nôm lưu giữ tại Thư viện Quốc gia Paris”)[[5]].
Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân, trong bài viết: “Vai trò của dịch thuật trong sự hình thành văn xuôi tiếng Việt” (1996) (http://lainguyenan.free.fr/DLNX/VaiTro.html) nhận xét: “Giới nghiên cứu trong Kitô giáo ghi nhận rằng G. Majorica là một trong những tác giả văn Nôm xuất sắc, trứ tác trên 20 tác phẩm, trong số đó đồ sộ nhất là Truyện Các Thánh. Ông rất thạo tiếng Việt, từng ra Thăng Long tham dự cuộc tranh biện giữa 4 tôn giáo (Nho, Phật, Đạo, Thiên Chúa). “Thiên chúa thánh giáo khải mông” có thể là tác phẩm bằng tiếng Việt đầu tiên của ông. Ở đây, ông không dịch mà phóng tác, tức là chủ động dùng tiếng Việt để diễn đạt lại nội dung của nguyên tác tiếng Latin. Vốn tiếng Việt ở giới giáo sĩ nói chung thường có được trong sự xúc tiếp với thường dân nhiều hơn là với quan lại, nho sĩ, vì vậy thành phần từ vựng Hán – Việt ít hơn, cách diễn đạt cũng gần với ngôn ngữ nói hàng ngày nhiều hơn”.
(GS Chương Thâu)
PGS-TS Sử học Chương Thâu kể lại chuyến đi sưu tầm tài liệu lịch sử Việt Nam tại Pháp vào mùa hè năm 1999. Ông có dịp đến đọc ở Thư viện Quốc gia (cũ) tại 58 Rue de Richelieu, Paris và tìm thấy một tập bản thảo viết tay của cuốn Thư mục mang tựa đề: “Catalogue du fonds Vietnamien” do Melle M.R. Seguy thực hiện năm 1953. Tất cả 19 tác phẩm chữ Nôm Công giáo, đa số của Majorica. Ông nhận xét: “Chữ Nôm ở các tác phẩm của Majorica chính là thứ chữ mà nhân dân ta (các nhà Nho và các trí thức Công giáo) thời đó vẫn thường dùng” (xin đọc: “Một số sách chữ Nôm ở Thư viện quốc gia Paris”).
Ostrowski, Brian Eugene:The Nôm Works of Geronimo Maiorica, S. J. (1589–1656) and Their Christology (luận án tiến sĩ). Ithaca: Cornell University 2006.
Nguyễn Quốc Dũng: Ngôn ngữ trong “Truyện Các Thánh” của tác giả Majorica – khía cạnh từ vựng và ngữ pháp. Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Huế 2009.
Nguyễn Thị Tú Mai: “Chữ Nôm và Tiếng Việt thế kỷ XVII qua Thiên Chúa Thánh Giáo Khải Mông của Jeronimo Maiorica” (Luận án tiến sĩ). Hà Nội: Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. 2012. LA12.0958.3.
Alberts, Tara (University of York) [[6]]: “Catholic Written and Oral Cultures in Seventeenth-Century Vietnam” (2012). Journal of Early Modern History. Quyển 16. Leiden: Koninklijke Brill. tr. 383–402
PGS-TS Lã Minh Hằng, Viện nghiên cứu Hán Nôm, bài viết: “Nguồn tư liệu từ vựng thế kỷ 17 qua khảo sát truyện ông thánh Inaxu”(2013).
Fr. Nguyễn Hai Tính, S.J. Tiến sĩ Thần học, Đại học Giáo hoàng Gregorian, Rome: bài viết (2014): Ngôn ngữ biểu trưng trong Giáo lý Sách Giáo Lý Của Cha Girolamo Maiorica và Sáng Kiến Hội Nhập Văn Hoá.[[7]]
Lm Gioakim Nguyễn Hoàng Sơn, bài viết: “Lm Jêrônimô Majorica S.J với Tác Phẩm Giáo Lý Chữ Nôm (2016).
Nguyễn Thế Nam [[8]], Viện Nghiên cứu Tôn giáo, viết bài: Khái lược về Hán Nôm Công giáo, nhận định chung: “Những nhân vật tiêu biểu, bỏ nhiều công sức biên soạn (san thuật), in ấn (truyền tử) các loại sách Hán Nôm Công giáo có thể kể đến là: Linh mục Jeronimo Maiorica (1589 -1656), Giám mục Ca-rô-lô Khiêm (Charles Hubert Jeantet, 1792 – 1866), Giám mục Pierre Munagorri Trung (1907 – 1936), Giám mục Pierre Marie Gendreau Đông (1892 – 1935),…”
PGS-TS Lm Antôn Trần Quốc Anh SJ, thuyết trình đề tài: “Ảnh Hưởng của văn chương Công giáo trên việc truyền bá đức tin tại Việt Nam thế kỷ 17-19”, do Ủy Ban Văn Hóa trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam tổ chức ngày 25-26/10/2019, tại Trung tâm Mục vụ Tổng Giáo phận Sài Gòn. Ông nhận xét: “Từ góc độ ngôn ngữ và văn chương, các tác phẩm của Majorica có tác động sâu sắc đến người Công giáo Việt Nam nhiều hơn so với từ điển và giáo lý của Rhodes”[[9]]
TÁC PHẨM CỦA MAJORICA
Trần Thị Phương Phương [5. đd] giới thiệu bài viết của Hoàng Xuân Hãn về sách của Maiorica như sau:
“Ngoài phần giới thiệu tiểu sử của Majorica và các vấn đề chữ Nôm ở đầu, Hoàng Xuân Hãn dành 8 trang sau đó lần lượt miêu tả chi tiết về các bản thảo…
Ví dụ ‘hầu hết tất cả đều có cùng một khổ tiêu chuẩn (16 × 25), được viết trên giấy gió, đóng gáy theo kiểu Trung Quốc, với bìa bằng da. Những bìa sách này có màu nâu, đàn hồi và chịu lực tốt. Chín trong số những cuốn sách này có lẽ là của cùng một người, vì bìa của chúng mang dấu ấn đặc biệt là được gấp ở ba cạnh’ [2, tr.20]. Đặc điểm thư pháp chữ Nôm, số cột trên mỗi trang, các dòng chữ ghi tên sách bằng chữ Nôm, nhan đề bằng tiếng Latin, những ghi chú cách phát âm kí tự Nôm bằng chữ “quốc ngữ” kiểu xưa, dấu mộc của thư viện (nếu có), tên nguồn cung cấp ‘Chủng viện của giáo đoàn thừa sai ngoại quốc’ cũng được trình bày rất tỉ mỉ cho từng bản sách.
‘Tên tác giả thường được viết ở đầu tác phẩm, dưới dạng các kí tự Trung Quốc có thể phát âm: ‘Chi-yo-ni-mo Mai-o-yi-ca’, mặc dù cách viết có thay đổi một chút (ở đây Hoàng Xuân Hãn có đưa thêm cách ghi chữ Nôm trong phần chú thích – TTPP). Một trong những bản thảo, tập ba của De vita Christi (Truyện đời Chúa Kitô), có thêm dòng chữ bằng kí tự Latin ‘Jeronymo Mayorica” [2, tr.208].
Tuy nhiên, một số bản thảo không ghi tên tác giả vẫn được Hoàng Xuân Hãn đưa vào danh sách của mình bởi ông cho rằng ‘có vẻ hợp lí khi gán cho tác giả này’ [2, tr.211].” (hết trích).
Ngày nay, chỉ còn lại 15 tác phẩm của Majorica, tổng cộng 4.200 trang và 1, 2 triệu chữ Nôm. Phần lớn được lưu trữ tại Thư viện quốc gia Pháp ở Paris.[[10]]
Các tác phẩm của Majorica có thể chia thành 4 thể loại cơ bản: sách truyện hạnh thánh, phỏng tác Kinh thánh, sách giảng thuyết, và sách giáo lý. Nhìn chung đây đều là văn xuôi, ngoại trừ một số phần là kinh cầu nguyện viết theo các thể văn vần. Ông phiên dịch, phóng tác hoặc sáng tác dựa trên nhiều nguồn khác nhau: các văn thư chính thức của Giáo hội (như Kinh thánh Vulgata, Sách lễ Rôma), công trình của các Giáo Phụ, cuốn Tổng luận Thần học của Thánh Tôma Aquinô, tác phẩm của các tu sĩ Dòng Tên, và các sách cùng với truyền khẩu về hạnh thánh [[11]].
Hầu hết các tác phẩm của Majorica đều có tựa đề bằng chữ Hán, mặc dù nội dung được viết bằng chữ Nôm. Đây là thông lệ chung đối với nhiều tác phẩm chữ Nôm:
Đức Chúa Giê-su 德主支秋 [The Virtuous Lord Jesus]
Dọn mình trước chịu Cô-mô-nhong 扽命略召姑模戎
Thiên Chúa thánh giáo hối tội kinh 天主聖教悔罪經
Thiên Chúa thánh giáo khải mông 天主聖教啟蒙 (1623) – based on the Italian-language catechism by Robert Bellarmine
Kinh những lễ mùa Phục sinh 經仍禮務復生
Qua-da-giê-si-ma, Mùa ăn chay cả 戈椰支差嗎務咹齋奇
Những điều ngắm trong các ngày lễ trọng 仍調吟𥪝各𣈜禮重
Thiên Chúa thánh mẫu 天主聖母
Các Thánh truyện 各聖傳 (1646)
Ông Thánh I-na-xu truyện 翁聖⾐那樞傳 (1634)
Ông Thánh Phan-chi-cô Xa-vi-e truyện 翁聖幡支姑車為𠲖傳
Truyện Bà Thánh I-sa-ve 傳妑聖衣沙蟡
Sách gương phúc gương tội 冊𦎛福𦎛罪
Kinh đọc sớm tối 經讀𣌋最 (lost)
Cho đến nay, việc tìm kiếm, phục hồi sách của Majorica đã có những khởi động triển vọng. Tháng 8 năm 2023, Ban từ vựng Hán Nôm Công giáo [[12]] trực thuộc Ủy ban Giáo lý Đức tin Hội đồng Giám mục Việt Nam được thành lập. Ban sẽ tổ chức biên tập, hiệu đính, số hóa phần quốc ngữ và chữ Nôm, xuất bản có imprimatur và có giấy phép nhà xuất bản kho sách Hán Nôm mà Lm Vinc Nguyễn Hưng [[13]] cùng nhóm Nghiên cứu- Dịch thuật Hán Nôm Công giáo của ngài đã thực hiện.
PGS-TS Lã Minh Hằng cho biết, nhóm Nghiên cứu-Dịch thuật Hán Nôm Công giáo của GS Lm Thanh Lãng và Lm Nguyễn Hưng đã công bố 31 văn bản Nôm của Majorica [[14]]. Các bản này đã được chuyển sang quốc ngữ và ấn hành nội bộ từ 2003. Thực ra nhóm của Lm Vinc Nguyễn Hưng, Thanh Lãng, Vũ Văn Kính đã dịch được 127 tác phẩm trong số 150 sách Hán Nôm Công Giáo sang chữ quốc ngữ [[15]]. Hiện Ban từ vựng Hán Nôm Công giáo đã in Các thánh truyện tháng 1, 2, 3, 5, 10, 11, 12, Đức Chúa Giêsu, Ông thánh Inaxu của Majorica;…(Nxb Đồng Nai. 2024).
***
“THIÊN CHÚA THÁNH GIÁO KHẢI MÔNG” VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ TRUYỀN GIÁO
Sách Nôm của Majorica là sách giáo dục đức tin và hướng dẫn giáo dân sống đạo. Vì thế, nội dung sách hướng đến những sinh hoạt tôn giáo. Sách ít có ảnh hưởng ngoài xã hội, trừ các giá trị Ngôn ngữ học (tiếng Việt thế kỷ 17).
Chẳng hạn, các sách:
Sách “Dọn mình trước chịu Cô-mô-nhong” (Comonhão: rước lễ) được coi là sách Thần học về Bí Tích Thánh thể (nhận định của Lm Vinc Nguyễn Hưng). Nội dung sách hướng dẫn tâm linh và thực hành việc chịu Bí Tích Thánh Thể. Xin đọc các nội dung: “Lời nguyện trước chịu Cô-mô-nhong”, “Khi đã chịu Cô-mô-nhong”…
Sách “Những điều ngắm trong các ngày lễ trọng” hướng dẫn giáo dân việc nguyện ngắm khi dự thánh lễ. Thánh lễ Công giáo theo nghi lễ Rôma, sau phần đọc và suy niệm Kinh thánh, phần phụng vụ Thánh Thể và những lời kinh chung, còn có những khoảng lặng để giáo dân suy gẫm và cầu nguyện riêng. Nhưng không phải ai cũng thông hiểu lời dạy của Giáo hội trong mỗi thánh lễ. Và hơn nữa, Giáo hội cần thống nhất mọi thành phần dân Chúa trong lời cầu nguyện chung (hiệp thông). Sách “Những điều ngắm trong các ngày lễ trọng” hướng đến mục đích ấy. Mở đầu là “Phép chung cùng các kinh phải thầm thĩ trước sau khi nguyện ngắm”; sau đó là nguyện ngắm trong những thánh lễ cụ thể: “Điều ngắm trong lễ hai ông thánh đầy tớ cả Đức Giê-su là ông thánh Phi-li-phê cùng ông thánh Gia-cô-bê”; “Điều ngắm trước ngày lễ Đức Chúa Giê-su lên trời”…
Sách “Kinh Những Lễ Mùa Phục Sinh” là những suy niệm Kinh thánh và cầu nguyện trong mùa Phục Sinh. Thí dụ: “Ngày lễ cả thứ nhất sau Lễ Phục Sinh, Đọc lời: Khi Đức Chúa Giê-su hiện đến cùng ông thánh Tu-me cho xem năm dấu ở mình”. Sau khi thuật lại đoạn Kinh thánh, suy niệm, phần cuối là lời cầu nguyện: “…Chúa tôi cùng Dêu tôi. Chớ gì tôi chịu Cô-mô-nhong mà chịu lót mình Đức Chúa Giê-su vào lòng tôi, thì bắt chước ông thánh Tu-me mà xưng rằng: Một Đức Chúa Giê-su rửa lòng tôi chẳng còn trở về đầu ma quỷ nữa”.(tr. 30)
Sách “Thiên Chúa Thánh Mẫu” “là bộ Thánh Mẫu Học đã có từ trung tuần thế kỷ 17, gồm cả những luận cứ trình bày lòng tôn sùng Đức Mẹ và những chỉ đạo thực hành lòng tôn sùng đó” (Lm Nguyễn Hưng, Lời giới thiệu. tr. 5)
Sách “Thiên Chúa Thánh Giáo Hối Tội Kinh”, là sách hướng dẫn giáo dân sám hối. Majorica khuyên: Hãy dùng sự sám hối để từng bước chặn lại cái tật phạm tội như uống nước lã. Ông luận về “tội”: Tội chống lại với Thiên Chúa, Tội làm mất lòng Chúa, Tội đã khiến Chúa Giê-su phải chết khổ nhục. Chúa sẽ trừng phạt kẻ phạm tội…Ông chỉ ra: Phương pháp chừa tội, Sám hối hoàn hảo, Sám hối chân thành, Sám hối cách trọn…
Sách Qua-da-giê-si-ma (Mùa ăn chay cả) là sách chuẩn bị tâm hồn tín hữu đón mừng mầu nhiệm Phục sinh. Sách gồm hai phần: Phần I là một số bài suy luận lời Chúa các ngày lễ: Thứ Tư lễ Tro, các Chúa nhật I, II, II, IV, V mùa Chay, Chúa nhật Lễ Lá. Phần II là một số kinh đọc mùa Chay như: Kinh cầu chịu nạn, Ngắm 15 sự thương khó, Tường thuật cất xác Chúa, Lần hạt năm dấu thánh Đức Chúa Giê-su (Lời giới thiệu của Lm Nguyễn Hưng).
***
Sách “Thiên Chúa Thánh Giáo Khải Mông”(1623) là sách giáo lý Công giáo có những giá trị đặc biệt. Sách không chỉ dạy giáo lý cho giáo dân, mà trình bày nội dung tư tưởng Thần học, Triết học, tu đức Kitô giáo. Những nội dung ấy là hết sức mới mẻ đối với đời sống tinh thần của người Việt thời bấy giờ, thời mà người Việt chỉ biết tụng kinh Phật, đọc sách Nho, sống “vô vi” theo Lão và thực hành “đạo ông bà”(đạo hiếu) Việt.
Sách “Thiên Chúa Thánh Giáo Khải Mông” cùng với sách Phép Giảng Tám Ngày (1651) của Alexandre de Rhodes là hai cuốn sách đi những bước tiên phong trong việc hội nhập văn hóa, đem đến cho công chúng Việt một tôn giáo mới, mới về đức tin, về nghi lễ và lối sống. Cả hai cuốn sách cũng là những tìm tòi thể nghiệm truyền giáo trong việc sử dụng ngôn ngữ (chữ Nôm, chữ Quốc ngữ), cách trình bày giáo lý (giảng-vấn đáp, phê phán những gì là mê tín), và hướng dẫn thực hành các phương thức sống đạo theo giáo lý Rôma…Trong cuộc hội nhập văn hóa, cả hai cuốn sách đều đi trước Huấn Thị 1659 của Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin, vì thế không tránh khỏi những va vấp.
Sách “Thiên Chúa Thánh Giáo Khải Mông” được Majorica soạn dựa trên sách Giáo Lý Ngắn của thánh Rôbertô Bellarminô. Lời giới thiệu ghi:
“Thầy cả Rô-bê-tô Bê-la-mi-no dọn, thầy cả Giê-rô-ni-mô làm ra tiếng Anam. Trong sách này có những lời Đức Chúa Giê-su truyền dạy xưa tóm lại làm một, vì có những lời phải tin, cậy, mến Đức Chúa Trời và những lời phải giữ cho được lên thiên đàng. Lại có bảy Sa-ca-ra-men-tô Người truyền cho được thêm sức linh hồn mà đi đường ấy cho mạnh. Sách này ông thánh Pha-pha Ghê-men-tê thứ tám xưa dạy thầy Rô-bê-tô làm, vì người biết nhiều lẽ và sáng lời nói cho nên dễ nghe. Sau ông thánh Pha-pha cho thầy ấy làm Ca-đi-na-lê là chức quan chầu chực ông thánh Pha-pha, lại cho cai bổn đạo thành Ca-phô-a làm Vít-vồ cả đất ấy”[[16]].

TS-Lm Nguyễn Hai Tính cho biết: “Tuy nhiên, cha Girolamo Maiorica đã thêm nhiều điều vào các câu hỏi đáp vốn rất súc tích của Giáo Lý Ngắn, trong đó có các giải thích lấy từ cuốn Giáo Lý Công Đồng Trentô, một số giải thích “theo ý thói An Nam” (TCTGKM, 14) phù hợp với tâm thức, não trạng và đời sống người Việt ở thế kỷ XVII, và các câu truyện đông tây kim cổ khác” [7-đd]
Nội dung sách gồm 6 đoạn:
“Đoạn thứ nhất giảng khải mông là đí gì và có mấy phần?”
“Đoạn thứ hai giảng sự dấu Câu-rút”.[dấu Thánh giá]
“Đoạn thứ ba giảng mười hai điều phải tin”.[Kinh Tin Kính]
“Đoạn thứ bốn giảng lời nguyện Đức Chúa Giê-su truyền”.[Kinh Lạy Cha]
“Đoạn thứ năm giảng kinh A-ve”.[Kinh Kính Mừng]
“Đoạn thứ sáu giảng mười sự răn”. [10 điều răn]
***
Xin trích đọc đoạn thứ nhất, đoạn thứ hai và các câu hỏi của đoạn thứ ba:
(trích từ bản quốc ngữ của nhóm Nghiên cứu-Dịch thuật Hán Nôm, sử dụng nội bộ 2003. Văn bản có dạng đối thọai, Tôi in đậm câu hỏi để bạn đọc dễ theo dõi văn bản)
ĐOẠN THỨ NHẤT
Giảng khải mông là đí gì và có mấy phần?
Tôi nghe người ta rằng: Ai muốn rỗi linh hồn phải học Thiên Chúa Thánh Giáo Khải Mông, thì tôi ước ao cho thầy dạy tôi sự ấy là đí gì.
Ấy là lới tóm lại mọi sự Đức Chúa Giê-su truyền xưa, để cho người ta biết đường lên thiên đàng.
Lời ấy có về mấy ngôi?
Về có bốn mối. Một là kinh Tin Kính, hai là kinh Tại Thiên, ba là mười sự răn, bốn là bảy Sa-ca-ra-men tô.
Nhân sao có bốn mối mà thôi?
Bấy nhiêu sự Đức Chúa Giê-su truyền về bốn mối, vì giúp ba đức cái là tin và cậy cùng mến, vì kinh Tôi Tin Kính giúp sự tin, vì dạy ta phải tin. Kinh Tại Thiên giúp sự cậy vì dạy ta sự phải xin. Mười sự răn giúp sự mến vì dạy ta phải giữ sự gì cho đẹp lòng Đức Chúa Trời. Còn các Sa-ca-ra-men-tô chẳng khác gì giống mà gìn giữ sự tin sự cậy cùng sự mến cho bền.
Có lời thí dụ nào cho tôi biết tỏ tường sự bốn mối này chăng?
Ông thánh Âu-cu-tinh truyền thí dụ này về kẻ làm nhà, trước khi làm nền, đoạn dựng cột lên, sau mới lợp. Mà làm bấy nhiêu sự có dùng giống nọ, giống kia như mài, đẽo, cưa mới làm được. Ấy vậy ai nấy có tùy dọn linh hồn mình như dọn nhà lên trời, thì trước hết phải tin, ấy là như đắp nền, đoạn cậy trông, ấy là dựng cột lên, ba là kính mến, ấy là như lợp nhà vậy. Các Sa-ca-ra-men-tô giúp bấy nhiêu sự như giống giúp làm nhà vậy.
Tôi ước hỏi cho thầy dạy truyện gì cho tôi càng tin lời thầy đã giảng khi nãy?
Có nhiều truyện dạy ta hãy học bốn sự ấy cho nên. Song le nói bây giờ một sự này, vì là sự mới và hay lắm. Các thầy dòng Đức Chúa Giê-su ở nước Ma-li-na truyền rằng: xưa có một người nữ sang trọng góa chồng phải tật thủy thũng mà nhọc lắm, khi đã gần qua đời thì họ hàng gọi một thầy dòng Đức Chúa Giê-su. Thầy ấy làm hết sức cho người liệt học sự cái phải tin. Song le nó tối dạ lắm, thì học chẳng được làm dấu, thì thầy rửa tội cho; mà về khỏi hai ngày, thì người ấy chẳng còn tỉnh. Nửa đêm người ta nghi là đã qua đời, kẻ ở nhà thấy làm vậy khóc lóc cả tiếng cho đến sáng như thói đất ấy. Bấy giờ dọn sự cất xác. Khỏi một hai giờ, xác ấy liền động, thì người ta sợ hãi. Đến khi nó tỉnh, liền nói rằng: anh em phải biết những sự lạ xem thấy. Tôi đã lên núi cao kia, trên đỉnh núi ấy thấy đất bằng lắm, đi hết đất ấy mới lên một thang đồng mà thấy một đền những vàng thật, mọi sự tốt lành ở thế gian ví chẳng bằng cùng sự tốt ấy. Tôi muốn vào, song le có kẻ ngăn chẳng cho. Khỏi một giây, tôi thấy rất thánh Đức Bà Ma-ri-a ra, cùng thấy Thánh Thiên Thần ở cùng Người hình tượng như người còn trẻ tốt lành lắm. Bấy giờ Đức Bà hỏi tôi rằng: Mày có đạo Đức Chúa Giê-su chăng? Tôi thưa rằng: Lạy rất thánh Đức Bà, tôi có. Người lại trách tôi rằng: Mày có đạo, nhân sao chẳng thuộc lòng sự các bổn đạo nguyện? Tôi chẳng có lẽ gì mà thưa. Người liền quỳ xuống mà bảo tôi theo lời Người đọc trước. Khi ấy dạy tôi Kinh Tại Thiên, A-ve cùng kinh Tín Đức Yếu Đoan. Người lại rằng: Con hãy lở về cùng xác, chưa có đến ngày con qua đời đâu. Bấy giờ thánh An-giô đem tôi đến đây mà biến đi. Tôi mới sống lại. Đoạn nó làm dấu trên mình cùng nguyện ba kinh ấy. Kẻ nghe nó nguyện tỏ tường làm vậy thì sợ hãi, vì ngày trước chẳng biết đí gì sốt. Chẳng khỏi mấy ngày thì nó mới sinh thì thật.”(hết đọan I, trang 14-18).
ĐOẠN THỨ HAI
Giảng sự dấu Câu-rút
Khi thầy chưa có dạy sự phải tin tỏ tường, thì tôi ước ao biết dấu gì tóm lại sự phải tin đạo.
Mày xin vậy thì thậm phải. Vậy phải biết trong mỗi sự phải tin có hai sự trọng như cái vậy. Mà hai sự ấy ở dấu, gọi là Câu-rút thánh. Thứ nhất là Đức Chúa Trời có một tính ở Ba Ngôi, thứ hai là Con Đức Chúa Trời là Đức Chúa Giê-su làm người, cùng chịu nạn vì tội thiên hạ.
Đức Chúa Trời có tính Ba Ngôi là làm sao?
Sự ấy cao lẽ lắm. Có bao giờ giảng sự phải tin, sẽ giảng sự ấy ít nhiều. Bây giờ giảng vậy, mặc sức trí suy được. Vậy phải biết mọi sự trên trời dưới đất, trước chẳng có, sau thì mới có. Lại phải biết có một sự hằng có liên, chẳng có bởi vật nào mà ra, cùng chẳng có khi nào hết, hay là chết. Một sự ấy sẽ nên mọi sự khác ta xem thấy hay là xem chẳng thấy lại gìn giữ cùng trị mọi sự ấy, nhất sang trọng tốt lành vô cùng, có phép tắc chẳng hay hết. Sự ấy ta gọi là Dêu, nước này gọi Thiên Chúa. Lời ấy cũng là một chẳng có nhiều, vì chưng vốn tin Đức Chúa Trời là trọn lành gồm lại mọi sự lành. Nếu mà có nhiều Chúa, thì sự lành chia ra cùng Chúa Trời khác, vậy thì Chúa Trời chẳng có trọn lành, vì thiếu phần riêng ở Chúa khác. Vậy Chúa Trời thật có một mà thôi, chẳng có nhiều. Song le tính trọng vô cùng làm vậy ở Ba Ngôi gọi là Cha, Con, Phi-ri-tô San-tô và Ba Ngôi ấy là một Chúa Trời mà thôi, vì Ba Ngôi có một tính, một ý, một phép. Thí dụ dưới thế gian này có ba người, một là Phê-rô, hai là Bảo-lộc, ba là Giu-ong, mà ba người ấy có một linh hồn cùng một xác, dù mà ba ngôi vì Phê-rô khác, Bảo-lộc khác ngôi, Giu-ong cũng khác ngôi, thì chẳng khá rằng ba người vì có một xác cùng một linh hồn. Sự này chẳng có ở loài khác, vì quá sức mọi loài là thấp hèn chẳng thông được tính mình cùng nhiều ngôi. Có một Đức Chúa Trời bởi chẳng cùng thì trót Đức Chúa Cha ở cùng Chúa Con và Chúa Phi-ri-tô San-tô. Vậy phải Ba Ngôi vì một là Cha, hai là Con, ba là Phi-ri-tô San-tô, khác ngôi mà bởi chẳng có khác tính, thì chẳng phải ba Chúa Trời đâu.
Bây giờ xin giảng cho tôi sự về Đức Chúa Trời làm người.
Thì phải biết Ngôi Thứ Hai gọi là Con, có hai tính, một là tính thiêng liêng trọng vô cùng, hằng có vậy, lại Ngôi Con lấy tính người là linh hồn cùng xác trong lòng người nữ đồng trinh rất sạch sẽ. Vì vậy Ngôi Con, xưa là Chúa Trời thật mà thôi, từ ấy cho đến sau làm người thật ở dưới thế gian ba mươi ba năm, đoạn truyền sự về rỗi linh hồn cùng làm nhiều phép lạ, thì để cho kẻ gian bắt mình đóng đinh trên cây Câu-rút, và chịu chết có ý đền tội thiên hạ. Ngày thứ ba sống lại, khỏi bốn mươi ngày lên trời. Sự ấy sẽ giảng sau này.
Nhân sao hai sự này là sự cái trong đạo?
Gọi hai sự ấy là cái, cùng là nhất, vì sự trước về cội rễ, cùng mọi sự người ta phải ước ao; một sự là lẽ làm cho ta biết đến cùng cội rễ cực trọng ấy. Sau nữa gọi hai sự ấy là cái, vì chưng kẻ tin hai sự ấy nên, thì xưng ra mình chẳng có theo những đạo dối trá. Sau hết gọi làm vậy, vì chưng kẻ chẳng tin hai sự ấy, thì chẳng được rỗi linh hồn.
Nói rằng hai sự ấy ở dấu Câu-rút làm sao?
Khi làm dấu Câu-rút thì rằng: Nhân Danh Cha, và Con và Phi-ri-tô San-tô, và nói và làm hình chữ thập trên mình, vì trước lấy tay mặt đặt trên trán mà rằng: Nhân Danh Cha, lại để xuống ngực mà rằng: Và Con. Đoạn trở sang bên tay tả, sau hết trở lại bên tay hữu mà rằng: Phi-ri-tô San-tô. Lời Danh dạy ta có một Đức Chúa Trời, vì rằng Danh ấy là một Danh, chẳng phải nhiều Danh đâu. Nghĩa Danh này là phép Đức Chúa Trời, dù mà ở Ba Ngôi thì cũng là một phép, rằng Cha và Con và Phi-ri-tô San-tô dạy ta có Ba Ngôi. Làm hình chữ thập như dấu Câu-rút, thì làm cho ta nhớ sự thương khó Đức Chúa Giê-su. Sự đặt tay bên tả mà lại sang bên hữu làm cho ta biết vì công nghiệp Đức Chúa Giê-su, bởi sự có cùng thì ta sang sự chẳng cùng, bỏ tội mà được ga-ra-sa để chết mà gặp sống.
Làm dấu Câu-rút trên mình có ích gì?
Trước hết làm dấu Câu-rút trên mình cho thiên hạ được biết ta là quân quốc về vua cả trên hết các vua, là Đức Chúa Giê-su, vì dấu ấy chẳng khác gì áo dấu làm cho ta về đường riêng là đạo thật. Sau nữa làm dấu cho được sức bề trên mà làm mọi việc cho nên, vì khi làm dấu thì kính vái Đức Chúa Trời Ba Ngôi cực trọng, vì công nghiệp Đức Chúa Giê-su chịu nạn vì tội thiên hạ. Vì sự ấy, kẻ giữ đạo thì làm dấu trên mình, khi sớm mai trỗi dậy, khi bởi nhà mà ra, khi ăn cơm, khi đi nằm, khi dọn nguyện và toan làm mọi việc khác. Sau hết làm dấu có ý cho khỏi mọi chước quỷ, vì nó thấy dấu này thì dái sợ, chẳng khác gì kẻ có lỗi mà thấy quan cầm roi thì hãi, cho nên khi làm dấu mà cậy lòng lành Đức Chúa Trời và công nghiệp Đức Chúa Giê-su xưa chịu chết trên cây Câu-rút thì ta thường khỏi nhiều sự khó về xác và linh hồn.
Tôi xin giảng truyện nào về phép dấu cực trọng ấy.
Ông thánh Ghê-rê-gô-ri-ô Pha pha truyền rằng: Xưa trong một thành ở nước I-ta-li-a, có một Vít vồ tên là An-rê, có tiếng nhân đức lắm; trong nhà thầy ấy cũng có một người nữ giữ nết đã lâu, quỷ thấy làm vậy, thì làm hết sức cho thầy yêu con ấy quá lẽ, liền làm hình tượng mặt mũi nó in vào áo thầy, cho nên năng tưởng cùng nhớ nó. Khi ấy có một người Giu-dêu bởi nước khác đã hẩu đến thành Rô-ma phải khi mặt trời lặn mà chẳng có nhà đỗ được, thì vào một chùa đã nát ở giữa đường. Nó thấy nơi vắng vẻ thì sợ, liền nhớ khi bổn đạo phải sự gì khó, làm dấu Câu-rút trên mình. Dù mà nó chẳng tin sự ấy thì cũng làm dấu làm vậy. Song le bởi sợ thâu đêm, những thức, ngủ chẳng được nữa, đêm thấy nhiều quỷ vào chùa, lại thấy thầy nó ngồi một lều cao. Quỷ cả ấy liền hỏi các quỷ mọn những sự dữ nó làm ở khắp thiên hạ. Có kẻ thưa việc dữ nọ, có kẻ thưa việc dữ kia. Bỗng chốc quỷ kia liền rằng: tôi giục lòng An-rê Vít vồ năng tưởng cùng yêu một người nữ ở trong nhà. Quỷ cả nghe điều ấy thì mừng lắm cùng khen việc ấy. Quỷ ấy lại thưa rằng: Hôm nay tôi lại xui lòng thầy ấy cho nên lấy tay mà đá đến nách con ấy. Quỷ cả liền rằng:Mày hay làm việc hãy làm nữa, cho đến sau thì mày được tiếng trọng trong các bạn. Thằng Giu-dêu thấy và nghe những sự làm vậy thì run sợ cả và mình. Quỷ cả thấy nó liền rằng: Các quân ta hãy đi xem thằng ấy, cả lòng vào đây. Mà quỷ xem đi xem lại liền kêu rằng: Khốn ta thằng này như chĩnh không mà có dấu bề ngoài. Nói đoạn các quỷ ấy liền biến đi hết. Thằng Giu-dêu liền ra khỏi chùa mà đi mau chân lắm, tìm Vít vồ An-rê, hỏi người có phải chước ma quỷ gì chăng? Người chẳng dám xưng ra sự gì cùng nó, chối rằng: Chẳng có, thì thằng ấy liền rằng: Ban hôm qua thầy chẳng đá đến vai con kia ru? Vít vồ thấy làm vậy liền chẳng cho con ấy ở nhà mình nữa. Thằng Giu-dêu thấy phép Câu-rút liền tin mà chịu phép Rửa tội. Khi ma quỷ giục lòng sự gì trái lẽ thì nó năng làm dấu Câu-rút trên mình mà rằng: Khi tôi chưa có đạo còn khỏi quỷ, phương chi đã có tên thánh cùng ga-ra-sa trong linh hồn, phép đức Chúa Giê-su thì càng cậy hơn nữa.”(hết đoạn 2). (Xem chú thích[[17]])
ĐOẠN THỨ BA
Giảng 12 điều phải tin
(Hơn 50 câu hỏi)
-Tôi xin giảng cho tôi một khi một điều, vậy tôi tin kính là đí gì?
-Tôi tin kính Dêu là đí gì? Nhân sao bằng Dêu Cha? Nhân sao rằng hay trọn?
-Nhân sao rằng dựng nên trời đất mà thôi? Đức Chúa Trời chẳng có dựng nên nước, lửa, là đá, cây cối, người ta cùng muôn vật ru?
-Xin giảng cho tôi phần thứ hai, là tôi tin một Con Chúa Dêu là Chúa Giê-su là đí gì?(31) Thí dụ…
-Gọi Con Đức Chúa Trời là Giê-su Ki-ri-xi-tô làm chi?
-Nhân sao ta nghe tên Đức Chúa Giê-su thì bái, cùng cất nón, mà nghe tên khác Đức Chúa Trời chẳng có kính làm vậy?
-Nhân sao rằng Chúa Giê-su là Chúa chúng tôi?
-Tôi xin giảng cho tôi lời rằng: Xuống thai nhân phép Phi-ri-tô San-tô, Thánh Ma-ri-a chịu thai sanh đẻ đồng trinh
-Tôi chẳng biết ý người đồng trinh chịu thai là làm sao?
-Nếu Đức Chúa Phi-ri-tô San-tô làm việc ấy thì gọi Đức Chúa Phi-ri-tô San-tô là Cha Đức Chúa Giê-su nên chăng?
-Nhân sao một việc này, Đức Chúa Phi-ri-tô San-tô làm, Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con chẳng có làm với ru?
-Tôi chưa có thông lẽ, nhân sao Ba Ngôi cũng làm một, sinh nên một người, mà một Ngôi Con nên người thật mà thôi?
-Nhân sao thêm rằng: Thánh Ma-ri-a sinh đẻ đồng trinh?
-Khi Đức Chúa Giê-su ra đời có điềm lạ cho tôi được biết chăng?
-Tôi đã nghe sự về Đức Chúa Giê-su ra đời, bây giờ còn truyện nào về Đức Mẹ đồng trinh trọn đời thì xin thầy giảng cho tôi?
-Chịu nạn chưng thì quan Phong-si-ô Phi-la-tô, chết mà bèn lấp là đí gì?
-Đức Chúa Giê-su vì có tội lỗi gì, nhân sao để cho kẻ dữ giết mình trái lẽ làm vậy?
-Nhân sao Đức Chúa Giê-su chọn chịu giống chết dữ làm vậy?
-Đức Chúa Giê-su có tính Đức Chúa Trời và tính người, mà tính Đức Chúa Trời chịu chết chẳng được, nhân sao rằng Người chịu chết?
-Nếu Đức Chúa Giê-su đã đền tội vì hết người ta, nhân sao còn nhiều kẻ sa địa ngục, mất linh hồn, lại cả và loài người ta phải đền vì tội riêng?
-Tôi xin nói thí dụ nào tỏ hơn nữa
-Tôi xin giảng cho tôi lời sau rằng: Xuống địa ngục có ý gì?
-Đức Chúa Giê-su chịu chết đoạn xuống hạng nào?
-Nhân sao rằng: Ngày thứ ba sống lại, vì chưng từ hôm ngày thứ sáu là khi Người chịu chết cho đến sáng ngày thứ nhất chẳng có nên hai ngày trọn?
-Nhân sao Đức Chúa Giê-su chẳng sống lại chóng mà đợi ba ngày làm chi?
-Nhân sao rằng: Đức Chúa Giê-su sống lại, mà khi nói đến kẻ khác rằng: Đức Chúa Trời cho sống lại như ông La-sa-rô cùng người khác?
-Tôi hỏi cho biết: Đức Chúa Giê-su và kẻ khác sống lại có khác gì chăng?
-Hỏi thầy cho biết sự Đức Chúa Giê-su lên trời, từ sống lại cho đến khi lên trời khỏi bao lâu?
-Nhân sao rằng: Đức Chúa Giê-su lên trời, mà khi nói đến Rất Thánh Đức Bà thì rằng: đem lên trời?
-Ngự bên hữu Đức Chúa Cha là đí gì?
-Tôi hỏi cho biết Đức Chúa Con ngự bằng Đức Chúa Cha vì có tính Đức Chúa Trời hay là có tính người với?
-Tôi chưa có tỏ sự làm vậy, xin giảng cho tôi tỏ hơn nữa.
-Điều trong kinh rằng: Bởi đấy mà lại phán xét kẻ sống cùng kẻ chết, sự ấy bao giờ?
-Nhân sao phán xét kẻ sống và kẻ chết?
-Nhân sao rằng: ngày sau lại chịu phán xét?
-Tôi tin kính Phi-ri-tô San-tô là đí gì?
-Một mà tên Phi-ri-tô San-tô, nhân sao Đức Chúa Cha cùng Đức Chúa Con chẳng gọi là Phi-ri-tô San-tô?
-Nhân sao vẽ Đức Chúa Phi-ri-tô San-tô như chim câu đỗ trên đầu Đức Chúa Giê-su, hay là Rất Thánh Đức Bà?
-Nhân sao tông đồ về Phi-ri-tô San-tô những lưỡi lửa?
-Tôi xin giảng sự tin San-ta I-ghê-rê-goa Ca-tô-li-ca [Hội thánh Công giáo]?
…
-Nhân sao rằng: San-ta thánh vì trong bổn đạo có nhiều kẻ có tội lỗi? San-tô cùng thông công là đí gì?
-Tôi tin chưng tha tội là đí gì?
…
-Khi người ta sống lại có lấy xác cũ hay là xác mới giống xác cũ?
-Xác ai phải lửa đốt ra tro, bỏ sông hay là hùm ăn cá nuốt đi mất thì xác ấy sống lại làm sao được?
-Kẻ sống lại nên đàn ông hay đàn bà như xưa, hay là một giống hết?
-Khi sống lại có mấy tuổi? Cùng bao lớn?
-Hằng sống là đí gì?
-Xin giảng cho tôi sự lành về hằng sống?
-Các thánh bằng nhau ru?
-Sự vui trên trời gọi là hằng sống, kẻ ở địa ngục thì chẳng hằng sống ru?
-A-men là đí gì?
***
NHẬN XÉT VĂN BẢN
“Thiên Chúa Thánh Giáo Khải Mông” là một tác phẩm được viết bằng chữ Nôm (loại khẩu ngữ), thứ chữ ghi âm tiếng Việt. Vì thế tác phẩm của Majorica là kho tàng vô giá cho các nhà ngôn ngữ học nghiên cứu tiếng Việt thế kỷ 17.
Tiếng Việt thế kỷ 17, của Majorica đến nay có nhiều từ không còn trong giao tiếp đương đại.
Xin trích: (xin lưu ý những chữ in đậm)
khải mông là đí gì, sự ấy là đí gì;[“đí gì”: là nghĩa lý gì]
cho người liệt học sự cái phải tin; ba đức cái là tin và cậy cùng mến; có hai sự trọng như cái vậy; Gọi hai sự ấy là cái, cùng là nhất..(xem chú thích về chữ “cái”)
về khỏi hai ngày, thì người ấy chẳng còn tỉnh [về khỏi hai ngày: hai ngày sau]
khóc lóc cả tiếng cho đến sáng
Bấy giờ dọn sự cất xác [thu dọn việc chôn cất]
Mày có đạo, nhân sao chẳng thuộc lòng sự các bổn đạo nguyện?
Con hãy lở về cùng xác, chưa có đến ngày con qua đời đâu [trở về]
ngày trước chẳng biết đí gì sốt. [không biết gì]
Chẳng khỏi mấy ngày thì nó mới sinh thì thật.”[chết]
lấy tay mà đá đến nách con ấy. [đá động, đụng chạm]
Các quân ta hãy đi xem thằng ấy, cả lòng vào đây.[to gan, lớn mật]
Khốn ta thằng này như chĩnh không mà có dấu bề ngoài
Ban hôm qua thầy chẳng đá đến vai con kia ru?[chạm đến vai]
Tuy vậy, nhiều từ “nhà đạo” thời Majorica đến nay vẫn còn được dùng trong các kinh nguyện. Nói vậy để thấy giá trị ngôn ngữ trong tác phẩm của Majorica vượt thời gian thế nào. Thí dụ: “Song le tính trọng vô cùng làm vậy ở Ba Ngôi gọi là Cha, Con, Phi-ri-tô San-tô và Ba Ngôi ấy là một Chúa Trời mà thôi, vì Ba Ngôi có một tính, một ý, một phép.”…

Tara Alberts cho rằng, việc Majorica chọn chữ Nôm để sáng tác là một chiến lược đầy khôn ngoan để thực hiện sứ vụ truyền giáo [[18]]. Mặc dù ông gặp nhiều khó khăn trong việc dịch khái niệm Thần học sang tiếng Việt sao cho bảo đảm được tín lý và phù hợp với văn hóa Việt. Những thầy giảng người Việt đã trợ giúp ông rất nhiều. Majorica tập trung viết sách là để chứng minh với giới trí thức Việt thời đó (Nho gia, Phật Gia) đạo mới cũng có những kinh thư như Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo. Nhiều nhà nghiên cứu Majorica đã đề cập đến vấn đề này. Bài viết của Ts-Lm Nguyễn Hai Tính nói khá cụ thể về những đóng góp của Majorica:
“Việc dịch các khái niệm thần học không phải là chuyện dễ làm, vì không phải lúc nào cũng tìm được các khái niệm tương đương ở ngôn ngữ đích; ngay cả khi ngôn ngữ đích có các khái niệm tương đương thì, trong nhiều trường hợp, chúng cũng không thể lột tả trung thực ý nghĩa thần học của các khái niệm gốc. Đó là lý do cha Girolamo Maiorica đã cố gắng tìm các khái niệm tương đương trong tiếng Việt (thí dụ: thánh, ơn) để dịch các khái niệm thần học tế nhị (và vốn có một lịch sử phức tạp), đồng thời vẫn giữ lại các từ Bồ Đào Nha (vốn phát xuất từ Latinh, ngôn ngữ gốc của các khái niệm thần học từ thời các giáo phụ), để định hướng cách hiểu của các từ tiếng Việt. Như vậy, cách làm của cha Girolamo Maiorica đáp ứng cả hai tiêu chí là vừa Việt hoá ngôn ngữ thần học, vừa “rửa tội”, hay là thần học hoá ngôn ngữ Việt..”. [xin đọc chú thích 7-đd].
Đọc trích đoạn thứ nhất và đoạn thứ hai ở trên, người đọc hôm nay thấy rõ sự lúng túng của Majorica trong việc giảng giải tín điều Thiên Chúa Ba Ngôi. Đây là một tín niệm Thần học căn cốt của đạo Công giáo mà người tín hữu “phải tin”. Mọi suy niệm (lý trí) đều không thể đạt tới (xin đọc thêm Tổng luận Thần học-Summa Theologica của thánh Thomas Aquinas). Ông nói: “Sự ấy cao lẽ lắm. Có bao giờ giảng sự phải tin, sẽ giảng sự ấy ít nhiều. Bây giờ giảng vậy, mặc sức trí suy được”.
Ông đưa thí dụ giải thích Thiên Chúa Ba Ngôi không thuyết phục: “Thí dụ dưới thế gian này có ba người, một là Phê-rô, hai là Bảo-lộc, ba là Giu-ong, mà ba người ấy có một linh hồn cùng một xác, dù mà ba ngôi vì Phê-rô khác, Bảo-lộc khác ngôi, Giu-ong cũng khác ngôi, thì chẳng khá rằng ba người vì có một xác cùng một linh hồn”.
Ông cũng né tránh giảng những gút mắc của vấn đề đức tin và lý trí (Đoạn thứ ba):
Hỏi: “Tôi chẳng biết ý người đồng trinh chịu thai là làm sao?
Trả lời: “Sự mầu nhiệm Đức Chúa Trời thì phải tin hơn thông biết, vì phép Đức Chúa Trời làm thì quá sức trí ta suy chẳng được…” (tr. 37)
Majorica viết đối thoại có nhiều độc đáo. Ộng giả định cuộc đối thoại bằng những câu hỏi và trả lởi, giải thích chi tiết những tín điều. Thí dụ, đoạn ba, giảng Kinh Tin Kính, ông tách thành hơn 50 câu hỏi, trong đó có những câu hỏi rất thú vị. Những câu hỏi này vừa giàu tính lý luận vừa có tính phản biện, vừa thể hiện sự sắc xảo tư duy và sự thách đố dí dỏm bình dân:
“- Nếu Đức Chúa Giê-su đã đền tội vì hết người ta, nhân sao còn nhiều kẻ sa địa ngục, mất linh hồn,…?”;
“- Nhân sao Đức Chúa Giê-su chẳng sống lại chóng mà đợi ba ngày làm chi?”;
“- Khi người ta sống lại có lấy xác cũ hay là xác mới giống xác cũ?
– Xác ai phải lửa đốt ra tro, bỏ sông hay là hùm ăn cá nuốt đi mất thì xác ấy sống lại làm sao được?”
Thiên Chúa Thánh Giáo Khải Mông của Majorica (1623) và Phép Giảng Tám Ngày của Alexandre de Rhodes (văn bản bằng chữ quốc ngữ in 1651) gợi ra nhiều vấn đề nghiên cứu về ngôn ngữ, về tư tưởng, tôn giáo và hội nhập văn hóa trong sứ vụ truyền giáo của các thừa sai ở Việt Nam.
Thiên Chúa Thánh Giáo Khải Mông là sách đối thoại, giảng dạy rất cặn kẽ về đức tin, về lẽ đạo, về thực hành sống đạo. Nhìn sâu xa, những vấn đề Majorica trình bày là để giáo dục tư tưởng (khác với tư tưởng Nho, Phật, Lão), trang bị những phương pháp nhận thức chân lý (làm thế nào để biết đâu là đạo thật), là hội nhập văn hóa (giúp giáo dân sống đạo giữa làng xóm, cộng đồng Việt). Tài năng thuyết giảng của Majorica thể hiện ở nghệ thuật lập luận vững chắc, ở cách dẫn giải tỉ mỉ, thân tình; cách đưa dẫn chứng phù hợp, cách liên hệ thực tế và những so sánh cụ thể, sống động; cùng với một văn phong vừa trang trọng, vừa tinh tế, dí dỏm, phù hợp với minh triết và tâm lý Việt.
Lm Nguyễn Hai Tính SJ. nhận xét: “Riêng về giá trị của tác phẩm “Thiên Chúa Thánh Giáo Khải Mông” đối với kho tàng đức tin và ngôn ngữ nhà đạo, chúng ta chỉ cần xét một vài câu trong cuốn này để thấy rằng những thói quen hành đạo, công thức đức tin, và ngôn từ nhà đạo vẫn còn phổ biến ngày nay đã có từ thời cha Girolamo Maiorica viết cuốn sách đầu tiên”[[19]].
***
CÁC THÁNH TRUYỆN & Những giá trị văn xuôi chữ Nôm Công giáo
1.Nhà nghiên cứu Nguyễn Đông Triều giới thiệu Các Thánh Truyện:
“Sách kể lại cuộc đời các vị Thánh cùng những sự kiện quan trọng của bổn đạo mỗi ngày trong năm, chia thành 12 tháng, nhưng tháng 6 thất truyền (trong Thư viện Quốc gia Pháp cũng không còn), tổng cộng 11 tháng là 1.686 trang, mỗi tháng trình bày lần lượt theo ngày, mỗi ngày 1-3 truyện (đa số là 1 truyện), tuy nhiên có vài ngày không có truyện, phần lớn mỗi truyện được chép trọn trong 1 đoạn văn Nôm”…
… “Theo bản chúng tôi hiện có, 11 tháng tổng cộng 335 ngày, trong đó 243 ngày có 1 truyện, 86 ngày có 2 truyện, 4 ngày có ba truyện. Tháng 9 có ngày 19 và ngày 26 không có truyện. Các tháng nhiều truyện nhất là Tháng Giêng, Tháng 5, Tháng 8 (41 truyện), ít truyện nhất là Tháng 11 (35 truyện), còn lại dao động giữa số lượng 37-39. 11 tháng này có tổng cộng 425 truyện, trong đó về nhân vật, truyện riêng Ông Thánh là 286, truyện riêng Bà Thánh là 75, truyện chung các Ông Thánh là 26, truyện chung các Bà Thánh là 3, truyện chung các Ông Thánh Bà Thánh là 9; về sự kiện, có 228 truyện về Thánh tu hành, 168 truyện về Thánh tử đạo, 29 truyện về các sự kiện khác. Số lượng Thánh gồm 413 Thánh Ông (kể cả Đức Chúa Giêsu), 92 Thánh Bà; ngoài ra còn rất nhiều Thánh khác tử đạo cùng với một số trong các Thánh ấy.[[20]].
Lm Vinc Nguyễn Hưng)
- Lm Nguyễn Hưng đặt vấn đề: “… khi giới thiệu bộ Các Thánh Truyện…phải chăng cha Mayorica đã không hoàn toàn sáng tác tác phẩm vĩ đại này, nghĩa là đã không hoàn toàn soạn và đã chép ra chữ Nôm. Có thể ngài chỉ đọc những gì đã soạn sẵn, rồi vị Hòa Thượng Thành Phao nào đó đã chép ra chữ Nôm, một thứ chữ Nôm viết tay rất hoa mỹ. Thấy có những kiểu chữ Nôm viết khác nhau: điều đó chứng tỏ cha Mayorica đã nhờ nhiều người khác chép”(Lời giới thiệu sách Những kinh lễ mùa Phục sinh 3)
- Mở đầu Các Thánh Truyện – Tháng Giêng, Majorica viết:
“Dòng Đức Chúa Giê-su, Giê-rô-ni-mô Mai-Ô-ri-ca làm sách này kính dâng các Thánh.”
“…tôi dâng sách này cùng các truyện tóm lại thích ra tiếng An Nam cho Rất Thánh Đức Mẹ Chúa tôi cùng các Thánh, có ý cho nước này được biết đường các Thánh đi xưa mà rỗi linh hồn”… “Trong sách này chẳng có nói hết sự trọng các Thánh làm, vì tôi chưa tìm được những sách truyền sự ấy cho đủ.”
Majorica nói về cách đọc truyện:
“Khi ta đọc truyện ông Thánh nào, bà Thánh nào, phải có ý mà nghe cho hiểu, lại khi ngắm sự ấy phải xem việc ta làm có giống người Thánh ấy hay là chăng, mà thấy chẳng có giống còn khác xa, thì phải xin sức bề trên mà rốn (rán) cho được bắt chước như làm vậy”[[21]].
- Có thể đưa ra vài suy đoán về việc Majorica viết Các Thánh Truyện:
Với số lượng truyện đồ sộ như vậy, một mình Majorica không thể viết thành văn bản chữ Nôm mà phải nhờ nhiều người viết. Trên văn bản tác phẩm, Majorica có ghi tên một vài người, như “vị Hòa Thượng Thành Phao nào đó” mà Lm Nguyễn Hưng đã lưu ý. Nguyễn Đông Triều nhận xét văn bản: “Người chép các tháng của bộ sách là khác nhau, cụ thể: Người chép Tháng 9, Tháng 10 với người chép Tháng 11, Tháng 12 không phải là một. Chữ viết Tháng 11, Tháng 12 khác chữ viết Tháng 9, Tháng 10. Chữ viết Tháng 11, Tháng 12 tuy to hơn nhưng không đều, cũng không đẹp bằng; ở Tháng 12 chữ viết càng về sau càng xấu và nhiều sai sót,…”
Vấn đề là, người giúp Majorica chép thành văn bản chữ Nôm dựa vào tài liệu nào? Phải chăng Majorica đọc (bằng miệng) đến đâu thì người giúp việc chép lại đến đó? Hay Majorica soạn thành một bản gốc (không rõ bằng loại chữ nào, Latin, Bồ đào Nha hay chữ Nôm) để người giúp việc chép lại thành bản Nôm đẹp hơn và đúng chuẩn tác phẩm hơn (bản của Majorica là bản nháp, có thể có bôi xóa, ghi chú…)?
Các Thánh là những nhân vật được Tòa thánh Rôma phong thánh và được kính trong các thánh lễ hàng năm, theo từng ngày tháng. Tất cả những nhân vật ấy đều có hồ sơ cụ thể, nhiều vị đã được kể thành sách truyện để nêu gương sáng trong Giáo hội. Như vậy việc Majorica viết Các Thánh Truyện chắc chắn là dựa vào các tài liệu của Giáo hội. Có thể ông chỉ biên tập lại cho phù hợp với tư duy, ngôn ngữ Việt.
Hãy quan sát một vài thánh được kính trong tháng Giêng:
Mồng hai: Ông thánh Ma-ca-ri-ô I-chi-tô tu hành truyện (Macário-Egipto, Ai Cập)
Mồng ba: Bà thánh Giê-nô-vi-pha đồng trinh truyện. (Genoveva; Pháp)
Mồng mười: Ông thánh Ma-ca-ri-ô tu ành truyện (người nước I-chi-to)
Mười một: Ông Thánh I-giê-nô Pha-pha truyện (Hygino, Hy Lạp)
Mười bốn. Ông Thánh Phê-li-xê truyện (Félix ede Noie. Italia 584)
Mười lăm. Ông thánh Bảo-lộc tu hành truyện (thánh Paul de Thèbes-) (xứ Tebas, miền thượng Ai Cập)…
Các vị thánh trên đều là người phương tây, có người sống rất xa trước Majorica.
Ông cũng nói về việc thiếu tài liệu viết sách: “Trong sách này chẳng có nói hết sự trọng các Thánh làm, vì tôi chưa tìm được những sách truyền sự ấy cho đủ.”
Như vậy, phần sáng tạo của Majorica là ở cách kể chuyện, cách sử dụng ngôn ngữ và ở lời bình ngoại đề.
Ta hình dung thế này, người Việt thường kể chuyện cổ tích dân gian. Không ai kể giống ai, không theo một văn bản chính thức nào. Người kể chỉ cần nắm chắc cốt truyện, xác định mục đích kể chuyện, dùng ngôn ngữ riêng, cách kể riêng để kể. Người kể có thể thêm thắt, hư cấu những chi tiết nằm ngoài chính truyện để làm cho câu chuyện sao cho mới lạ, hấp dẫn người nghe, tùy theo đối tượng và hoàn cảnh. Có lẽ Majorica sử dụng cách kể dân gian như vậy.
Xin đọc truyện Ông thánh Chicô Savie
(Mồng hai, tháng 12-Francois Xavier, Linh mục dòng Tên), (lược trích từ trang 10 đến trang 17):
Tóm lược:
Quê ông thánh này là nước Navara. Cha mẹ sang trọng. Có chị là madalina đồng trinh, nhân đức. Chị mong cho em được học hành để ngày sau soi sáng nhiều nước thiên hạ.
Phanchicô giữ mình đồng trinh, ăn chay hãm mình, năng viếng kẻ liệt. Một lần quỷ can chẳng cho giữ việc ấy. Ông thánh Giêrônimô bởi trời hiện xuống mà an ủi.
Khi ấy vua nước Tuphôga (nước Bồ Đào Nha) sai Inaxu [Inacio] đi Tây Trúc [Ấn Độ] soi sáng các linh hồn, liền chọn Phanchicô đi theo. Phanchicô không cho đầy tớ đi theo mà tự làm việc mình như thổi cơm, rửa bát, nằm ngoài nắp tàu, lấy dây lèo làm gối như kẻ rốt. Một năm rưỡi mới vào Tây Trúc.
Bây giờ nói đến những sự người làm 11 năm khi ở bên Đông cho [đến] qua đời thì khó lắm vì tóm lại làm một bấy nhiêu sự phúc ấy chẳng khác gì muốn lấy nước biển tra vào sông nhỏ vậy, vì chưng chẳng có giống đức nào mà người chẳng yêu hết, chẳng có phép nào mà người chẳng làm cho đạo Đức Chúa Trời càng ngày càng thịnh.
Từ Thiên Trúc Người đi Cômôrinh cùng nước Travencô đoạn đi thành Malaca, lại đi nước Nhật Bản, cùng nước Đại Minh, lại về Thiên Trúc, đi đi lại lại nhiều lần tìm linh hồn người ta hơn kẻ khát nước tìm mạch mà uống, cho nên có khi rửa tội trong một ngày lót làng, lót xã mà mỏi tay chẳng còn sức nữa, có khi giảng cho đến khản cổ, chẳng còn nói được…có khi nhịn đói, có khi làm cho kẻ chết sống lại, làm dấu cho mẻ mù sáng mắt, kẻ tật phong liền khỏi. Khi Người ở Nhật thì cũng chịu khó lắm. Nước ấy chưa có ai có đạo mà nhiều sãi, có khi Người bị ném đá, có khi bị đốt, bị chế nhạo. Người cho kẻ chết sống lại nên người ta chịu đạo nhiều…Có khi trong tàu hết nước uống, Người lấy nước mặn, làm dấu Câu rút trên, nước liền ngọt. Người ta gọi Ngài là Thánh.
“Người toan sang nước Đại Minh tâu vua sự ấy, cho được biết đường rỗi linh hồn, nhưng mà Đức Chúa Trời để cho người ước ao sự ấy mà thôi… Vậy Người chẳng được vào nước Đại Minh thì Đức Chúa Trời rước lên trời, thì trọng hơn nữa là thiên đàng. Khi ấy người được 55 tuổi, xác thì để trong săng đầy những vôi có ý cho chóng hết thịt mà đem xương về Thiên Trúc. Khỏi một năm rưỡi mới đem về đấy, thì xác còn tốt cùng thơm tho và có khi cất đi cất lại thì chạm phải vai, mà còn máu chảy ra.
Ông thánh Pha pha Ghêrêgôriô thứ mười lăm xét được công nghiệp cùng phép người, phong chức Thánh cho cùng một ngày ông Thánh Inaxu là thầy mình. Từ Đức Chúa Giêsu ra đời đến ông thánh này được 1512 năm”.
Nhận xét cách kể truyện Phanxicô của Majorica.
Majorica thuật lại đúng những biến cố quan trọng cuộc đời Phanxicô, từ nhỏ đến khi theo Inaxu đi truyền giáo ở Thiên Trúc, ở Nhật Bản rồi định vào Trung quốc (nước Đại Minh). Nhưng Phanxicô không thực hiện được ý định của mình.
Majorica không viết tiểu sử Phanxicô bằng phương pháp lịch sử. Ông dùng hình thức kể chuyện, tập trung thuật lại hành trạng khác người, nhấn mạnh đến những phép lạ Phanxicô làm, và tương quan của Phanxicô với Thiên Chúa. Ông bình luận về cái chết của Phanxicô như sau: “Người toan sang nước Đại Minh tâu vua sự ấy, cho được biết đường rỗi linh hồn, nhưng mà Đức Chúa Trời để cho người ước ao sự ấy mà thôi… Vậy Người chẳng được vào nước Đại Minh thì Đức Chúa Trời rước lên trời, thì trọng hơn nữa là thiên đàng”.
Ngòi bút Majorica có khuynh hướng ngợi ca và lãng mạn hóa hiện thực: Phanxi cô “đi đi lại lại nhiều lần tìm linh hồn người ta hơn kẻ khát nước tìm mạch mà uống, cho nên có khi rửa tội trong một ngày lót làng, lót xã mà mỏi tay chẳng còn sức nữa, có khi giảng cho đến khản cổ, chẳng còn nói được…”. Ông không miêu tả Phanxicô chết cô độc vì sốt rét trên đảo Sancian như thế nào (đảo Shangchuan, ngoài khơi bờ biển Trung Quốc), mà miêu tả cái chết ấy bằng đức tin đẹp đẽ dường nào: “Vậy Người chẳng được vào nước Đại Minh thì Đức Chúa Trời rước lên trời, thì trọng hơn nữa là thiên đàng”.
Ông thêm vào nhiều lời bình ngoại đề để trực tiếp phát ngôn về nhân vật, đồng thời nâng cảm xúc tiếp nhận cho người đọc. Ông lý giải mọi hành động và phẩm chất của Phaxicô bằng Thần học Kitô giáo, bằng đức tin kiên vững của một tu sĩ dòng Tên mà cốt lõi là ở khát vọng chinh phục nhiều linh hồn cho Chúa của Phanxicô (cũng là của chính ông):
“Bây giờ nói đến những sự người làm 11 năm khi ở bên Đông cho [đến] qua đời thì khó lắm vì tóm lại làm một bấy nhiêu sự phúc ấy chẳng khác gì muốn lấy nước biển tra vào sông nhỏ vậy, vì chưng chẳng có giống đức nào mà người chẳng yêu hết, chẳng có phép nào mà người chẳng làm cho đạo Đức Chúa Trời càng ngày càng thịnh”.
***
Xin đọc sách Đức Chúa Giê-su-Quyển chi nhị:
Đoạn thứ nhất.
ÔNG THÁNH GIU-ONG RỬA ĐỨC CHÚA GIÊ-SU DƯỚI SÔNG TÔ-DA-NÔ [Jordan]
… “Ông thánh Giu-ong [Gioan] mặc áo những lông Ca-mê-lô nhặm mình, gầy guộc võ vàng vì ở trên rừng hãm mình nhiều năm. Vậy người toan mở đường cho Đức Chúa Giê-su ra giảng đạo, thì lấy nước rửa người ta bề ngoài cùng bảo ăn năn tội cho được khỏi địa ngục. Khi ấy sãi vãi cùng nhiều kẻ đến cùng người, xưng tội mình làm cùng xin chịu phép Rửa tội mình.
Bấy giờ ông thánh Giu-ong biết lòng người ta độc dữ thì quở nó rằng: Bay là con cái rắn độc kia, ai mà bảo bay sự thương khó đời sau, bay muốn khỏi sự ấy, thì phải ăn năn tội cho nên, cùng làm việc lành bởi ăn năn tội mà ra. Chớ cậy rằng ta là dòng dõi ông ông A-ba-ra-ong làm chi. Đức Chúa Trời lấy hòn đá này mà làm ra con ông A-ba-ra-ong cũng được. Cái rìu đã mong chém rễ, cây nào chẳng có ra trái nên thì chém cùng đốt đi.
Ấy lời ông thánh Giu-ong rằng: Người ta như cây cối, Đức Chúa Giê-su trồng ở dưới thế gian để cho ra trái nên, là những phúc đức cùng mọi việc lành. Người nào chẳng có giữ nết cho nên, thì rìu búa ở gần cây ấy, là phép Đức Chúa Lời phạt kẻ có tội. Vậy chém cây cùng đốt kẻ ấy là cất sự sống cùng phạt trong địa ngục.
Có kẻ thấy ông thánh Giu-ong giảng cùng người ta làm vậy, thì nghĩ là Đức Chúa Giê-su xuống thế gian chuộc tội cho thiên hạ. Vậy người ta bảo nó rằng: Tôi lấy nước này rửa bề ngoài vậy, có kẻ đến sau này có phép cả sang trọng lắm, dù mà mở dây giầy Người thì tôi cũng chẳng dám. Người sẽ lấy phép Đức Chúa Phi-ri-tô Sang-tô [Chúa Thánh Thần] rửa tội bay như lửa đốt cây cối vậy. Người đến chọn gạo thóc cùng rơm. Gạo thóc thì cất đi trong kho, rơm thì lấy lửa chẳng hay tắt mà đốt. Ấy là chọn kẻ lành bỏ kẻ dữ. Kẻ lành thì để trong kho, là rước lên thiên đàng. Kẻ dữ thì bắt đốt trong trong lửa địa ngục vô cùng.
Đương khi ông thánh Giu-ong còn làm phúc cho người ta làm vậy, khuyên kẻ cả kẻ mọn giữ đạo cho nên, thì Đức Chúa Giê-su cũng đến đấy chịu phép xin rửa cùng người. Ấy ông Thánh Giu-ong chưa thấy mặt Đức Chúa Giê-su ngày nào sốt, mà khi ấy thấy Người liền hãi, cùng nghe Người xin chịu phép rửa như các người ta có tội thì người càng hãi, liền chối chẳng nghe, lại rằng: Tôi thì tìm Chúa tôi làm phép Rửa tội cho tôi, mà Chúa tôi đến đây tìm tôi thì sao?
Đức Chúa Giê-su phán rằng: Dù vậy, hai ta giữ mọi việc lành cùng sự khiêm nhường thì làm vậy. Ông Thánh Giu-ong thấy chẳng có lẽ nào mà chối khỏi sự ấy, thì mới lấy nước sông Tô-da-nô [Jordan] rửa cho Đức Chúa Giê-su nơi bến ấy cùng cả và sông, thì thiên hạ còn kính sông ấy bây giờ. Xưa kẻ có tật phong cùng tật gì xuống nước sông ấy mà cậy phép Đức Chúa Giê-su liền đã tức thì.
Đức Chúa Giê-su ra khỏi nước liền quỳ xuống mà nguyện, bỗng chốc lời [trời] liền mở ra cùng sáng láng xuống chung quanh nơi ấy. Đức Chúa Phi-ri-tô Sang-tô lấy hình bồ câu sáng láng tốt lành mà hiện xuống trên đầu Đức Chúa Giê-su, cùng có tiếng Đức Chúa Cha phán trên không rằng: Này là Con Tao mà đẹp lòng Tao lắm.
Đức Chúa Giê-su toan làm phúc cho thiên hạ cùng dựng nên bảy phép cao sang trọng, cho người ta được ga-ra-sa [ân sủng], thì Đức Chúa Giê-su trước hết chịu đầy tớ rửa mình như kẻ có tội vậy. Sự ấy thí dụ như kẻ có muốn làm nhà cao cho vững vàng, thì đào đất mà chôn cột cho sâu. Ấy nhà cao là phúc sang trọng ở trên lời, cột chôn là ở khiêm nhường dưới thế gian. Vậy ai khiêm nhường thì càng được đường phúc, kẻ kiêu ngạo thì càng mở đường phạm tội.
Sự rửa ông Thánh Giu-ong truyền thì chẳng có phép tha tội cho ai, người rửa làm vậy cho người ta được ăn năn tội, mà bởi ăn năn nên thì mới được tha tội. Song le bởi rửa Đức Chúa Giê-su truyền là Sa-ca-ra-men-tô [Bí tích] thật có phép tha tội. Vì vậy khi Đức Chúa Giê-su xuống sông mà cho nước có phép tha tội thì lời liền mở ra, vì chưng người ta bởi chịu phép Rửa tội cho nên thì được làm con Đức Chúa Lời, cùng có Đức Chúa Phi-ri-tô hiện xuống cùng Đức Chúa Giê-su…”(sách Đức Chúa Giê-su, Quyển chi nhị. Nxb Đồng Nai 2024. Tr. 19-29)
Nhận xét cách kể truyện Đức Chúa Giêsu của Majorica
Nếu đối chiếu đọan Majorica kể chuyện “ông Thánh Giu-ong rửa Đức Chúa Giê-su dưới sông Tô-da-nô” với Tân ước thánh Mathêu: Chúa Giê-su chịp phép Rửa (Mt 3, 13-17), người đọc có thể nhận ra nghệ thuật kể chuyện Kinh thánh của Majorica. Ông không bám sát nguyên văn Kinh thánh. Ông bình luận về Gioan, rồi mới kể việc Gioan làm phép Rửa cho Đức Giê-su trên sông Jordan. Sau đó ông tiếp tục bình luận, so sánh phép Rửa của Gioan và của Đức Giê-su. Đó là những đoạn thêm vào, cùng với những liên hệ, những so sánh, để giảng giải Kinh thánh, mà mục đích là để giáo dục người ta: “Ấy là chọn kẻ lành bỏ kẻ dữ. Kẻ lành thì để trong kho, là rước lên thiên đàng. Kẻ dữ thì bắt đốt trong trong lửa địa ngục vô cùng…”
Cần phải đọc nhanh đoạn văn, lướt qua những hư từ, tách ra lời trần thuật với lời bình, dựng lại khung cảnh, viết lại đối thoại bằng tiếng Việt hiện đại, người đọc mới hiểu hết ý Majorica.
Những giá trị văn học của Các Thánh Truyện
Các Thánh Truyện là các truyện kể, loại truyện ngắn, một thể loại văn chương lâu đời. Truyện ngắn có nhiều cách kể, kể truyền miệng theo lối dân gian hoặc kể bằng văn bản với cấu trúc, bút pháp và phong cách như truyện ngắn hiện đại. Tất nhiên Majorica phải cân nhắc chọn lựa cách kể. Có thể, ông phối hợp kiểu truyện “Hạnh các thánh” của Công giáo, cách cấu trúc truyện ngắn phương tây và cách kể linh họat kiểu chuyện dân gian Việt. Nghĩa là, Các Thánh Truyện hội tụ những đặc sắc nghệ thuật đông-tây.
Truyền thống văn xuôi Việt Nam (tính đến Các Thánh Truyện 1646) đã có nhiều thế kỷ. Việt điện U Linh tập (1329) của Lý Tế Xuyên, Lĩnh Nam Chich Quái của Trần Thế Pháp (khoảng từ năm 1370 đến 1400), Truyền Kỳ Mạn Lục (1547) của Nguyễn Dữ thời Lê mạt[[22]]… là những tập truyện văn xuôi có giá trị lớn về tư tưởng, tâm linh, lịch sử, xã hội và văn học Việt. Do bối cảnh lịch sử, những tập truyện ấy tuy được viết bằng chữ Hán nhưng nội dung truyện kể, hiện thực được phản ánh, sự thể hiện tư tưởng, văn phong và diễn ngôn là văn học Việt Nam.
Các Thánh Truyện của Majorica góp thêm vào làm phong phú truyền thống ấy bằng những truyện viết bằng chữ Nôm, cách kể chuyện dân gian, kể theo tuyến thời gian mạch lạc, dễ tiếp nhận, tập trung vào hành trạng và đức hạnh của nhân vật, kiểu nhân vật lý tưởng, có những phẩm chất phi thường.
Đóng góp của Majorica thật đồ sộ, phong phú. Theo Nguyễn Đông Triều [đd], chỉ tính 11 tháng, Các Thánh Truyện đã có 425 truyện, trong khi văn xuôi Việt chỉ có: Việt Điện U Linh tập có 27 truyện[[23]], Lĩnh Nam Chích Quái có 22 truyện (và phụ lục 19 truyện), Truyền Kỳ Mạn Lục có 20 truyện (tổng cộng ba cuốn có 88 truyện).
Majorica đem Thần học Kitô giáo và các truyền thống văn hóa phương tây vào tư tưởng Việt bên cạnh tư tưởng Phật, Nho, Lão. Điều này mở ra một thế giới tư tưởng khác cho văn hóa, văn học Việt.
Văn xuôi Việt có nhiều yếu tố thần thoại, miêu tả đời sống tâm linh; kể chuyện thần, thánh, ma quỷ… Trái lại, Majorica viết truyện “người thật việc thật”, những chứng nhân của đức tin, liên kết đời sống tâm linh, cõi thực trần gian với cõi trời. Vì thế Các Thánh Truyện của Majorica có sức cổ vũ cho một đời sống làm sáng lẽ đạo thật.
Majorica cũng kể nhiều phép lạ các Thánh làm. Điều này vừa tạo hấp dẫn, vừa củng cố lòng tin và có cơ sở đời thực. Bởi muốn được phong thánh, hồ sơ của người xin phong thánh phải có phép lạ được kiểm nghiệm khoa học. Cho nên những phép lạ Majorica kể có giá trị đức tin, khác với những truyện ma quỷ tâm linh dân gian có màu sắc mê tín.
Majorica sử dụng chữ Nôm, tức là tiếng Việt đang sử dụng ở tế kỷ 17, vì thế truyện của Majorica mang được bầu khí văn hóa Việt, cụ thể, sống động và gần gũi (bằng những từ ngữ, những kiểu câu nói, những lối diễn đạt, những kiểu tư duy, những minh triết dân gian và những lối nói dí dỏm…). Nếu so sánh, thì truyện viết bằng chữ Hán không có được những giá trị này. Sau này, Hoàng Lê Nhất Thống Chí của Ngô Gia Văn Phái (khởi đầu từ Ngô Thời Chí, 1753-1788), Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ (1768-1839), Thượng kinh ký sự (1783) của Lê Hữu Trác cũng được viết bằng chữ Hán.
Truyện của Majorica cũng nằm trong dòng chảy chính của văn học dân tộc, đó là dòng văn học hiện thực, khuynh hướng đạo lý. Văn chương Việt Nam coi trọng giá trị hiện thực và giá trị giáo dục. Nguyễn Đình Chiểu từng cao rao đạo đức: “Trai thời trung hiếu làm đầu/ Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình” (Lục Vân Tiên). Majorica cũng nhấn mạnh việc noi gương các Thánh trong sống đạo: “Khi ta đọc truyện ông Thánh nào, bà Thánh nào, phải có ý mà nghe cho hiểu, lại khi ngắm sự ấy phải xem việc ta làm có giống người Thánh ấy hay là chăng, mà thấy chẳng có giống còn khác xa, thì phải xin sức bề trên mà rốn (rán) cho được bắt chước như làm vậy”[21 đd]. Việc “ta làm có giống người Thánh ấy, bắt chước như làm vậy” chính là giá trị hiện thực và thực hành đạo đức của truyện.
Nguồn văn liệu chính của Văn học trung đại Việt Nam là sử sách Trung quốc. Tác giả Việt Nam là những nhà Nho, học sách Khổng Tử, Mạnh Tử; đọc sử sách Trung quốc, nên khi sáng tác văn chương, họ dẫn tư liệu là nhân vật, sự kiện lịch sử, nhà thơ, nhà văn Trung quốc. Chỉ một câu văn tế mà Nguyễn Đình Chiểu dùng đến 2 điển tích Trung quốc: “Một chắc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây; Trăm năm âm phủ ấy chữ quy, nào đợi gươm hùm treo mộ” (Văn tế nghỉa sĩ Cần Giuộc). Hai điển ngữ Trung quốc là: “da ngựa bọc thây” và “gươm hùm treo mộ”[[24]].
Majorica đem vào văn học Việt những điển ngữ Kinh thánh. Ông thường dẫn truyện các thánh. Chẳng hạn, ông viết: “Ông thánh Âu-cu-tinh truyền thí dụ này về kẻ làm nhà, trước khi làm nền, đoạn dựng cột lên, sau mới lợp”, tức là Majorica dẫn lời thánh Augustino (354-430), nhà Thần học và triết học. Hoặc ông viết: “Khi Đức Chúa Giê-su ra đời có điềm lạ cho tôi được biết chăng? – Ông thánh Tô-ma-sô rằng: khi ấy bên đông có ba mặt trời mọc ra, mà ba mặt ấy là một…”[[25]], Majorica dẫn lời thánh Tô-ma-sô (Thomas d’Aquin.1227), tiến sĩ Hội Thánh. Hoặc: “Thí dụ dưới thế gian này có ba người, một là Phê-rô, hai là Bảo-lộc, ba là Giu-ong,”, Majorica lấy ba ông thánh làm thí dụ: Thánh Phêrô, thánh Phaolô và thánh Gioan Baotixita.
Như vậy, Các Thánh Truyện có giá trị đặc biệt với văn xuôi Việt thế kỷ 17 và có thể cung cấp một kho tư liệu mới mẻ cho các tác giả Việt Nam. Tuy nhiên, các tác phẩm của Majorica có lẽ chỉ lưu truyền trong các thầy giảng, và chỉ hướng về việc truyền giáo, hạn chế về in ấn và quảng bá, nên chưa gây được ảnh hưởng trong đời sống văn học Việt như Việt điện U linh tập, Lĩnh Nam chích quái, hay Truyền Kỳ Mạn Lục…
***
TẠM KẾT
Tôi viết tạm kết, bởi việc nghiên cứu tác phẩm của Majorica mới chỉ bắt đầu, đặc biệt là, những đóng góp của Majorica vào sự phát triển văn học dân tộc.
Chỉ với số lượng truyện trong Các Thánh Truyện của ông viết bằng chữ Nôm đã thấy tầm vóc của ông đồ sộ thế nào đối với văn xuôi Việt thế kỷ 17. Chưa nói đến việc nghiên cứu tiếng Việt thế kỷ 17, việc chọn lựa chữ Nôm của Majorica và chữ quốc ngữ cùa A, Rhodes có ý nghĩa thế nào trong tầm nhìn của hai nhân vật tài năng này khi hội nhập văn hóa Việt để thực hiện nhiệm vụ truyền giáo, và những thành công của họ cho chúng ta những bài học gì?
Tôi vẫn chưa giải mã được bí mật về việc ông học chữ Nôm, và về cách ông viết tác phẩm, dù biết rằng ông có các thầy giảng giúp sức.
Việc ông sử dụng chữ Nôm (khẩu ngữ bình dân) để viết tác phẩm làm tôi khâm phục, bởi ông phải thâm nhập rất sâu vào cộng đồng, sống sâu nặng với văn hóa Việt, hiểu thấu đáo tư tưởng, tín ngưỡng, tâm lý Việt thì mới có thể viết được tác phẩm như một tác giả Việt như vậy. Xin đọc những câu hỏi ở đoạn 3 trong Thiên Chúa Thánh Giáo Khải Mông để thấy sự tinh tế, sâu sắc vừa minh triết vừa hồn nhiên đậm Việt tính thế nào trong ngôn ngữ của Majorica [đd].
Cuộc đời và hoạt động văn hóa của Majorica cũng đặt ra nhiều vấn đề cho Giáo hội Công giáo Việt Nam hôm nay. Làm thế nào để Giáo hội có được nhiều Linh mục đức hạnh như lòng Chúa mong, đồng thời, các Linh mục là những nhà nghiên cứu, nhà khoa học, nhà văn hóa, nhà thuyết giảng như Majorica, tiếp tục có những đóng góp giá trị vào hội nhập văn hóa, văn học Việt?
Tháng 5/ 2025
[1] Tiến sĩ Georg Schurhammer S.J. (1882–1971) là linh mục dòng Tên người Đức. Năm 1900, học thần học tại Freiburg i. Br., gia nhập S.J. Năm 1908, đến Ấn Độ với tư cách là nhà truyền giáo. Năm 1935, làm Giáo sư Lịch sử Truyền giáo tại Universitas Gregoriana ở Rome. Tiến sĩ danh dự. Freiburg. (Nguồn: Festschrift; Spanish Wikipedia)
[2] Catholic literature about Francis Xavier in Vietnam– Dẫn theo bản dịch của Đỗ Văn Anh & Trương Bửu Lâm: Annamitisch Xavierius Literatur đăng trong quyển Missionswissenschaftliche Studien, in tại Aacher (Aix-la-Chapelle), 1951, từ trang 300 đến trang 314. https://www.vietcatholic.net/News/Html/39884.htm
[3] Cũng gọi là Thầy giảng Gioan Thanh Minh-Lê Đình Bảng, Văn học Công giáo Việt Nam-Những chặng đường. Nxb Tự điển Bách Khoa 2010. Tr. 107
[4] Philippe Bỉnh là một tu sĩ Dòng Tên. Ông được giáo đoàn Dòng Tên ở Việt Nam cử đi tìm kiếm sự giúp đỡ. Năm 1798 đến Lisbon, sống ở đây 35 năm. Trong Truyện nước Annam Đàng Ngoài chí Đàng Trong, ông kể về sự uyên bác và tài hùng biện của Maiorica trong cuộc tranh biện với mười vị sư Phật giáo trong phủ chúa Trịnh.
[5] Dẫn theo Trần Thị Phương Phương- Hoàng Xuân Hãn và tư liệu tác phẩm chữ Nôm của Girolamo Maiorica tại Thư
Viện Quốc Gia Pháp ở Paris. Bài viết của Hoàng Xuân Hãn in trong chuyên san Commentarii S. Francisco Xaverio Sacri, 1552-1952 (Chú giải về Thánh Francisco Xavier, 1552-1952), số XXII của Tạp chí Lưu trữ lịch sử của Hiệp hội Chúa Jesus (Archivum Historicum Societatis Iesu – https://gpquinhon.org/van-hoa/hoang-xuan-han-va-tu-lieu-tac-pham-chu-nom-cua-girolamo-maiorica-tai-thu-vien-quoc-gia-phap-o-paris-5683.html
[6] Tara Alberts is a Senior Lecturer in Early Modern History, Department of History, University of York.
https://www.york.ac.uk/history/people/alberts/
(xem bản dịch của Ngô Bắc: https://www.gio-o.com/NgoBac/NgoBacTaraACongGiaoVN.htm)
[7] Nguyễn Hai Tính- Ngôn ngữ biểu trưng trong Giáo LÝ- Sách Giáo Lý Của Cha Girolamo Maiorica và Sáng Kiến Hội Nhập Văn Hoá. https://sjjs.edu.vn/ngon-ngu-bieu-trung-trong-giao-ly/
[8] Nguyễn Thế Nam-Nghiên cứu viên, Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Viện Hàn Lâm KHXH Việt Nam. Khái lược về Hán Nôm Công giáo –Nghiên cứu tôn giáo số 3(153).2016. tr. 65-79).
[9] Trần Quốc Anh SJ, Tiến sĩ Thần học từ Đại học Georgetown : Ảnh hưởng của văn chương Công giáo trên việc truyền bá đức tin ở VN thế kỷ XVII – XVIII, https://denthanhanrephuyen.org/hoi-thao-van-hoa-anh-huong-cua-van-chuong-cong-giao-tren-viec-truyen-ba-duc-tin-o-vn-the-ky-xvii-xviii/
[10] Dẫn theo: Girolamo Maiorica- https://www.wikiwand.com/en/articles/Girolamo%20Maiorica
[11] Wiki dẫn theo Ostrowski 2010: “The Rise of Christian Nom Literature in Seventeenth-Century Vietnam: Fusing Europian Content and Local Expression”. Ithaca, New York: SEAP Publications, Chương trình Đông Nam Á Cornell, Đại học Cornell. tr. 19–
[12] Ban từ vựng Hán Nôm Công giáo. https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/gioi-thieu-ban-tu-vung-han-nom-cong-giao-54289
[13] Lm Vinc Nguyễn Hưng [1927-2010]-Tiến sĩ Ngôn ngữ học Sorbonne. Tác giả Thomas Nguyễn Văn Hiệp cho biết, hơn 20 năm qua Lm Nguyễn Hưng và nhóm Nghiên cứu-dịch thuật Hán Nôm Công giáo đã giới thiệu gần 130 tác phẩm Hán Nôm Công Giáo. https://www.vietcatholic.net/News/Html/77233.htm
[14] Lã Minh Hằng- Đôi nét về thư tịch Hán Nôm Công giáo tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm
Nguồn: Thông báo Hán Nôm học 2012,tr.250-260
[15] Cáo phó Lm Nguyễn Hưng. http://www.vietcharities.org/News/html/77186.htm
[16] Thiên Chúa thánh giáo khải mông-Quốc ngữ của nhóm Nghiên cứu dịch thuật Hán Nôm, lưu hành nội bộ 2003. Tr. 13
[17] Chú thích:
Dêu (Deus): Chúa
Sa-ca-ra-men-tô (Sacramentô): Bí tích
Ca-đo-na-lê (Cardinal): Hồng y
Câu-rút (Cruz): Thánh giá
Ga-ra-sa (Graca): Ân sủng
Vít-vồ (Bispo): Giám mục
học sự cái phải tin-cái: to lớn, chính yếu (thí dụ: sông cái; “con dại cái mang”)
khóc lóc cả tiếng: khóc to tiếng (cả: to lớn- thí dụ: anh cả, vợ cả)
nó thấy dấu này thì dái sợ: nó thấy dấu này thì e sợ (dái: e dè, kiêng kỵ)
thầy chẳng đá đến vai con kia ru?(“đá”- “đá động”: đụng chạm)
[18] Xin đọc: Tara Alberts-Văn hóa truyền khẩu và thành văn của đạo Công giáo ở Việt Nam thế kỷ XVII (Catholic written and oral cultures in seventeenth-century Vietnam) -Ngô Bắc dịch. https://www.academia.edu/4732272/Catholic_written_and_oral_cultures_in_seventeenth_century_Vietnam
[19] Fr. Nguyễn Hai Tính, S.J. Tiến sĩ Thần học, Đại học Giáo hoàng Gregorian, Rome: Bài viết (2014): Ngôn ngữ biểu trưng trong Giáo lý Sách Giáo Lý Của Cha Girolamo Maiorica và Sáng Kiến Hội Nhập Văn Hoá
https://sjjs.edu.vn/ngon-ngu-bieu-trung-trong-giao-ly/
[20] Nguyễn Đông Triều: Hiện tượng chép thiếu, chép thừa trong Các Thánh Truyện của Girolamo Majorica
https://bachkhoatoanthu.vass.gov.vn/noidung/anpham/Lists/baiviettoanvan/View_Detail.aspx?ItemID=102
[21] Các Thánh Truyện-Tháng Giêng-Hội đồng Giám mục Việt Nam-Ủy Ban Giáo lý Đức tin- Phân Ban Từ vựng Hán Nôm Công giáo. Nxb Đồng Nai. 2024. Tr. 13&17.
[22] Trúc Khê-Ngô Văn Triện-Lời tựa bản dịch Truyền Kỳ Mạn Lục, Nxb Tân Việt 1952
[23] Nguyễn Đỗ Mục dịch Việt Điện U Linh Tập-Dẫn nhập. 1959
[24] “Da ngựa bọc thây”: câu nói của Mã Viện, đời Hán. Mã Viện với một người bạn tên là Mạnh Ký: “nam nhi yếu đương tử ư biên dã, dĩ mã cách khỏa thi hoàn táng nhĩ, hà năng ngọa sàng thượng tại nhi nữ tử thủ trung tà!”. dịch là: Làm trai nên chết ở chốn biên thùy, lấy da ngựa bọc thây mà chôn mới là đáng trọng, chứ sao lại chịu nằm ở xó giường, chết ở trong tay bọn đàn bà con trẻ thì có hay gì?(Wiki chép theo GS. Nguyễn Thạch Giang, Từ điển văn học quốc âm. Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, 2000, tr. 347.)
“Gươm hùm treo mộ”:Quý Trát có thanh gươm quý, vua nước Từ muốn xin, Quý Trát biết ý, định đi sứ xong sẽ tặng. Khi trở lại thì vua Từ đã chết, Quý Trát đem gươm treo lên mộ.
[25] Thiên Chúa Thánh Giáo Khải mông, tr.41 (306)