MẤY GHI CHÚ VỀ TRƯƠNG VĨNH KÝ
Bùi Công Thuấn
***
Đã có nhiều công trình viết về Trương Vĩnh Ký (1837-1898). Đáng kể là cuốn sách Trương Vĩnh Ký-Cuốn sổ bình sanh của Nguyễn Sinh Duy (Nxb Văn Học 2004), cuốn Hiện tượng Trương Vĩnh Ký, tuyển tập các bài viết, chủ biên là Trần Văn Đạt, Lê Thành Lân và Phạm Hồng Đảnh (Liên Hội Ái Hữu Petrus Trương Vĩnh Ký Nam Bắc California và Nhóm Petrus Ký. Org thực hiện năm 2005) và Pétrus Ký nỗi oan thế kỷ của Nguyễn Đình Đầu (Nxb Tri thức. 2016), cùng với rất nhiều bài viết riêng lẻ đánh giá Trương Vĩnh Ký từ lúc ông còn sống đến nay. Tựu trung có hai luồng ý kiến: khen và chê; ghi công và kết tội. Đã có sự tách bạch con người văn hóa và con ngưởi chính trị của Trương Vĩnh Ký. Trương Vĩnh Ký là một danh nhân văn hóa, điều này đã được khẳng định. Song sinh thời, ông hợp tác làm việc với thực dân Pháp, điều này vẫn gây tranh cãi.
GÓC NHÌN VĂN BẢN
Những gì đã được bàn luận, chẳng hạn, tiểu sử và tác phẩm của Trương Vĩnh Ký, những hoạt động văn hóa của ông, việc vinh danh những đóng góp của Trương Vĩnh Ký với văn hóa dân tộc…Tôi xin không nhắc lại.
Bài viết này nhìn lại Trương Vĩnh Ký từ chính những diễn ngôn của ông (thư từ giữa ông và người Pháp), để từ đó, may ra có thể hiểu được ông, hiểu một thế hệ trí thức như ông trong hoàn cảnh đặc biệt của lịch sử Việt Nam.
- Ý thức chọn lựa con đường…
Hầu như các bài viết về Trương Vĩnh Ký đều bắt đầu bằng việc kể lại tiểu sử biên niên của ông rồi từ đó luận giải, đánh giá con người Trương Vĩnh Ký. Tùy theo góc nhìn chủ quan, người viết tập trung chứng minh cho nhận định của mình, để bênh vực hay phê phán. Các phương pháp thường được sử dụng là phương pháp tiểu sử, phương pháp phê bình Marxist, có cả phê bình phân tâm nhân vật. Nhưng mọi hướng nhìn đều quy về thái độ chính trị của Trương Vĩnh Ký. Thái độ này phản ánh cuộc đấu tranh tư tưởng của giới sĩ phu đương thời khi đất nước bị thực dân Pháp xâm lược cuối thế kỷ XIX.
Chẳng hạn, để “gỡ tội” cho Trương Vĩnh Ký, có người lý giải rằng, việc Trương Vĩnh Ký theo Pháp là do hoàn cảnh, ông không thể làm khác được.
Nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Vy Khanh viết:
“Phê phán dễ nếu không đặt vào hoàn cảnh của đương sự. Sau khi đi tu đạo Thiên Chúa không thành và du học từ năm 14 tuổi ở Poulo Pénang, ông về thọ tang mẹ năm 1858, lúc đó 21 tuổi và nay mồ côi cả cha lẫn mẹ, cũng là lúc triều đình vua Tự Đức gay gắt cấm đạo, từ 1848 đến năm 1861 sáu lần ra chiếu cấm đạo, như chỉ dụ 13 (1860) nói rõ không cho người theo đạo làm quan chức và nếu đang làm quan phải bỏ đạo nếu không sẽ bị hình phạt (“thắt cổ chết ngay”). Có đạo là một “tội hình”, Trương Vĩnh Ký sẽ làm nghề gì nếu không làm rẫy ruộng, nhưng ông lại mồ côi, không thân thích! Năm 1860, sau khi trốn khỏi trường Cái Nhum nơi ông tá túc và dạy trẻ em, vì bắt đạo, ông phải trốn lên Sài Gòn ở và làm việc cho giám mục Lefèbvre, nên khi Pháp cần thông ngôn gấp vì không thể tiếp xúc với dân chúng, chính Giám mục này đã tiến cử Trương Vĩnh Ký làm thông ngôn cho trung tá Hải quân Jauréguiberry, Tư lệnh Sài Gòn… Trương Vĩnh Ký lựa chọn con đường hợp tác sau mới rõ ra là ảo tưởng vì người Pháp không thực tâm “khai hoá”, nhưng lúc đó, họ Trương không có lựa chọn khác.”[[1]]
Lý giải như vậy thì không thuyết phục.Có lẽ tác giả chịu ảnh hưởng của một lá thư mạo danh của Petrus Key gửi cho Đội Hải Thuyền Pháp cuối thánh 3/1859. Thư do Vũ Ngự Chiêu sưu tầm và công bố (Xem Trương Vĩnh Ký-Cuốn sổ bình sanh của Nguyễn Sinh Duy, Nxb Văn học 2004. tr. 187-196). Thử so sánh: Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) và Trương Vĩnh Ký (1837-1898) sống cùng thời, cùng hoàn cảnh thực dân Pháp xâm lược, cùng lận dận gia đình, công danh, nhưng thái độ chọn lựa lý tưởng sống của Nguyễn Đình Chiểu là một tấm sáng soi chiếu trong lịch sử. Trái lại, không ai bênh vực được cho sự chọn lựa thái độ hợp tác với thực dân Pháp của Trương Vĩnh Ký hay những người khác cũng theo Pháp như ông (Tôn Thọ Tường, Hoàng Cao Khải…).
Đọc những thư trao đổi của Trương Vĩnh Ký với các quan chức Pháp, ta thấy rõ Trương Vĩnh Ký có ý thức chọn lựa con đường chính trị của cá nhân, không phải do hoàn cảnh.
(Cố Long-Lm Bouillevaux)
- Cội nguồn?
Cuộc đời Trương Vĩnh Ký là một lộ trình đặc biệt, được sắp đặt tinh vi.
Có 3 người Pháp chịu trách nhiệm về cuộc đời Trương Vĩnh Ký. 1/ Linh mục Bouillevaux (Cố Long, người Pháp) đã dạy dỗ Trương Vĩnh Ký từ nhỏ đến khi đi tu học học ở Penang. Khi trở về chịu tang mẹ, Trương Vĩnh Ký đi Tiểu chủng viện Cái Nhum làm phụ giáo cho linh mục bề trên Borelle Hòa. 2/ Giám mục Lefèbvre (đại diện Tông tòa đầu tiên của Địa phận Tây Đàng Trong, tức là Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay, từ năm 1844 tới năm 1864). Lefèbvre tiến cử Trương Vĩnh Ký làm thông ngôn cho trung tá Hải quân Jauréguiberry. 3/ Paul Bert (Tổng trú xứ An Nam (Trung kỳ) và Bắc kỳ năm 1886) tiến cử Trương Vĩnh Ký vào Cơ Mật Viện làm việc cạnh vua Đồng Khánh.
Linh mục Bouillevaux và Giám mục Lefèbvre là Bề trên của Trương Vĩnh Ký, vì thế ông phải “vâng phục” họ. Có lẽ ông còn hết sức tin tưởng vào họ, bởi họ đại diện cho Chúa. Paul Bert là bạn, ông có thể hợp tác. Nhưng Paul Bert còn là cấp trên, Trương Vĩnh Ký phải chấp hành mệnh lệnh. Paul Bert đã đặt Trương Vĩnh Ký vào vị trí cao nhất là kề cận với vua Đồng Khánh, để thuyết phục vua và triều đình theo Pháp. Trương Vĩnh Ký đã làm tốt nhiệm vụ này.
Lẽ ra, ở cương vị cao như Trương Vĩnh Ký, kề cận vua Đồng Khánh, được nhà vua yêu quý và đánh giá là hiền tài: “Thật tài tế thế kinh bang/ Bậc người thứ nhất khôn ngoan ai tày?”[[2]], Trương Vĩnh Ký đã có thể giúp vua giúp nước, góp phần thúc đẩy lịch sử Việt Nam tiến lên phía trước. Song ngược lại, ông đã hết lòng thực hiện nhiệm vụ người Pháp giao.
(Giám mục Lefèbvre)
NHỮNG “BÁO CÁO” CỦA TRƯƠNG VĨNH KÝ
Muốn hiểu rõ tư tưởng, suy nghĩ, thái độ hợp tác của Trương Vĩnh Ký đối với chính quyền thực dân Pháp, xin đọc những “báo cáo” ông đã gửi cho thượng cấp của ông. Những “báo cáo” này ông viết về tình hình chính trị của nước An Nam và trình bày những nhiệm vụ ông thực hiện.
- Báo cáo Trương Vĩnh Ký gửi đô đốc qua trung gian của ông Regnault de Premesnil, Tham mưu trưởng ngày 28/4/1876. (Xin đọc toàn văn trong sách Trương Vĩnh Ký nỗi oan thế kỷ, trang 244 – 249)
Xin tóm lược:
“Thưa ngài Tham mưu trưởng,
Tôi xin hân hạnh gửi đến ngài bản báo cáo mà ngài đã yêu cầu về tình hình chính trị của Bắc Kỳ sau chuyến đi vừa rồi của tôi”.
Trước hết, ông ghi chép ngắn gọn về chuyến đi: Khởi hành từ Sài gòn ngày 15/1, cập bến Touran, rồi đến Hải Phòng, trình diện Lãnh sự Pháp và được cấp giấy thông hành. Ở Hải phòng, Trương Vĩnh Ký được Phạm Phú Thứ và Nguyễn Tăng Doãn tiếp đã nồng hậu. Sau đó ông đi tham quan Hà Nội rồi trở lại Hải Phòng về Sài gòn.
Khi ở Hải Phòng, Trương Vĩnh Ký đã đi Nam Định, Phát Diệm, gặp Cụ Sáu (Lm Trần Lục), một người đã giữ gìn trật tự cho tỉnh Ninh Bình trong khi chính quyền địa phương tỏ ra bất lực. Ông đến Thanh Hóa, qua Tam Điệp, đến Kẻ Sở, là giáo phận của Giám mục Puginier rồi trở về Hải Phòng. Cập bến Sài gòn 20 tháng 4.
Ông viết tiếp:
“Đến đây tôi xin đề cập đến vấn đề chính trị đặc biệt quan trọng”…
“Người Công giáo và người không theo đạo căm ghét nhau sâu sắc, và trong các biến cố gần đây, nếu như các nhà nho và những người không theo đạo đã gây ra những tội ác tàn bạo, thì sự thực là người Công giáo trả miếng cũng không thua kém chút nào…Tôi xin kể ra trường hợp của Tổng đốc tỉnh Nam Định, người đã chứng kiến làng mình bị cướp phá, phóng hỏa và phần lớn người thân trong gia đình thiệt mạng vì các cuộc tấn công của người Ki tô…
“Tôi đã trò truyện rất nhiều với các quan lại giữ vị trí chủ chốt và tôi nhận thấy rằng hầu như tất cả bọn họ đều thấy bất mãn với vị trí của mình…
Mặt khác cũng không thiếu những người tài trí, những quan cai trị hiểu biết nhận ra được rằng sự cứu rỗi nằm trong cuộc cách mạng về chính trị của chính quyền, đó là những người đấu tranh hết sức mình với niềm tin và thẩm quyền trong tay để lèo lái tình hình triều chính theo ý họ. Cho đến nay họ là những người yếu thế nhất. Phe đối lập lo ngại Phạm Phú Thứ truyền bá các tư tưởng chính trị nên đã cử ông ra Bắc Kỳ. Phạm Phú Thứ, như tôi đã đề cập, và tôi biết rằng những người khác đã trình lên triều các yêu cầu thay đổi, đề đạt các biện pháp và các cải cách thích hợp hơn so với các hành động vô ích của chính quyền An Nam, trong tình hình hiện tại. Ngay cả các quan thượng thư cũng nhấn mạnh các giải pháp này. Nhưng Đức vua bị Viện Cơ Mật chi phối và có thể trong cơn lo sợ đi quá xa khỏi các phép tắc lập quốc của triều đình ban đầu do dự, cuối cùng đã quyết định không để tâm đến các đề xuất này nữa. Các thượng thư muốn từ quan, nhưng những lời thỉnh cầu của đức vua đã níu giữ được họ.”
. . . . .
Xứ sở này chắc chắn không thiếu tài nguyên, và đất đai ở đây, mà tôi dám so sánh với nước Pháp, đủ màu mỡ để làm giàu cho cả một quốc gia…
Xem xét đến đặc tính của người dân, tôi cho rằng họ không đáng phải chịu bất hạnh hơn bất cứ dân tộc nào khác. Đó là một dân tộc hiền hòa, vâng lời, siêng năng. Bản tính đó khiến cho họ dễ dàng bị áp đảo bởi tình trạng nhiễu nhương và bất ổn của thời đại này…và người dân khao khát một con đường cứu rỗi đến nỗi mà luôn đi lầm đường, liên tiếp đưa chân theo những nhà phiêu lưu mới với hy vọng cuối cùng sẽ tìm được sự bảo hộ mà họ đang kiếm tìm…
Các quan thường hỏi tôi liệu người Pháp có ý đồ xâm chiếm đất nước không. Tôi trả lời rằng không và lời nói ấy dựa trên hiệp ước hòa bình và thương nghiệp, cũng như các lợi ích mà họ đảm bảo mang đến An Nam. Trên thực tế, sự hiện diện của quan lãnh sự người Pháp và quân đồn trú tại Bắc Kỳ là một lời cam kết quan trọng cho sự bình yên của chính quyền An Nam cũng như của dân cư các vùng lân cận.
“Chúng ta phải cư xử thế nào đối với người Pháp để được lợi nhất?”. Họ tiếp tục hỏi tôi…
Đó là những nét nổi bật nhất mà tôi biết được, nhưng từ các cuộc bàn luận chi tiết, tôi nhận ra rằng, nói chung, bên ngoài những định kiến và những khó khăn vật chất, các viên chức không mong đợi gì hơn là được tham gia vào các tư tưởng mới. Nhưng nền nếp truyền thống vẫn còn ảnh hưởng lớn, họ sợ sẽ đánh mất sự trọng vọng từ những người xung quanh. Thêm nữa, họ đều tin rằng kháng cự lại nước Pháp là vô ích và nếu như người Pháp muốn xâm chiếm đất nước thì họ có thể làm được không khó khăn gì, cũng chẳng hao tốn là bao.
. . . . . . .
Trong tôi có một niềm tin sâu sắc rằng triều đình Huế không thể làm được việc lớn nếu không có sự giúp đỡ và rằng duy chỉ có nước Pháp mới có thể vực dậy đất nước này, một quốc gia lụi tàn, nếu như giới chức địa phương thực sự tin tưởng vào sự bảo hộ của nước Pháp.
Kính thưa ngài Tham mưu trưởng, đó chính là những nhận định khái quát mà tôi có nghĩa vụ phải trình bày với ngài. Tôi xin kết lời bằng mong muốn rằng ngài Thống đốc[M. le Gouverneur], người đã quan tâm lo lắng cho lợi ích của những người dân khốn khổ sẽ rộng lòng tin tưởng vào những gì tôi đã vừa mới diễn giải. Đây là kết quả của một quan sát kỹ lưỡng, do tôi tự tìm tòi học hỏi trong lúc thực hiện nhiệm vụ bé mọn của mình. Kính thư. P. Trương Vĩnh Ký”
***
Đọc “báo cáo” này, chúng ta phải thừa nhận Trương Vĩnh Ký có sự “quan sát kỹ lưỡng”, phân tích sâu sắc dưới góc nhìn của một nhà nghiên cứu khoa học có tầm nhìn chiến lược. Ông trình bày sự thối nát mục ruỗng của triều đình nhà Nguyễn. Ông nắm được tình hình và tư tưởng của chính quyền An Nam (các quan lại chủ chốt, các thượng thư..). Ông chỉ cho Pháp thấy cả sự giàu có tài nguyên đất nước và đặc điểm con người Việt Nam, “một dân tộc hiền hòa, vâng lời”. Ông ca ngợi sự bảo hộ của Pháp và cổ vũ tư tưởng Pháp-Việt đề huề: “chỉ có nước Pháp mới có thể vực dậy đất nước này, một quốc gia lụi tàn, nếu như giới chức địa phương thực sự tin tưởng vào sự bảo hộ của nước Pháp”; bởi vì giới chức chính quyền An Nam, “đều tin rằng kháng cự lại nước Pháp là vô ích và nếu như người Pháp muốn xâm chiếm đất nước thì họ có thể làm được không khó khăn gì, cũng chẳng hao tốn là bao”.
Giọng điệu của Trương Vĩnh Ký tỏ ra chân thành và khách quan nên “báo cáo” giàu tính thuyết phục. Ông đã làm đúng nghĩa vụ của một nhân viên tận tụy với nhiệm vụ của mình. Hẳn chính quyền Pháp đọc báo cáo này sẽ rất vui vì có được một người hợp tác tốt; vui vì sự xâm lược và thống trị của thực dân đã biến thành sự bảo hộ và niềm hy vọng của dân An Nam. “chỉ có nước Pháp mới có thể vực dậy đất nước này,…”; “Các quan thường hỏi tôi liệu người Pháp có ý đồ xâm chiếm đất nước không. Tôi trả lời rằng không”! Quả là một xác tín hùng hồn! Hình như ông biết lịch sử này?
Ngày 1/9/1858 Pháp chiếm Đà Nẵng
Tháng 2/1859 Pháp đánh Gia Định
Tháng 2/ 1861 Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông
Ngày 5/6/1862 Triều đình ký Hiệp ước Nhâm Tuất
Tháng 6/1867 Pháp chiếm 3 tỉnh miền Tây
Ngày 20/11/1873, Pháp đánh Hà Nội lần I
Ngày 15/3/1874 triều đình ký Hiệp ước Giáp Tuất
Ngày 25.4.1882 Pháp đánh Hà Nội lần 2
Ngày 18/8/1883 Pháp đánh Huế
Ngày 6/6/1884 Triều đình ký hòa ước Giáp Thân (Patenôtre):
“Điều 1: Nước Đại Nam công nhận và chấp nhận sự bảo hộ của nước Pháp. Nước Pháp sẽ đại diện cho nước Đại Nam trong tất cả các quan hệ ngoại giao với nước khác. Những người Đại Nam ở nước ngoài sẽ được đặt dưới sự bảo hộ của nước Pháp”.
- Thư Paul Bert gửi Trương Vĩnh Ký (ngày 29/6/1886)
(Paul Bert)
Xin lưu ý, thư này Paul Bert viết sau khi Triều đình Huế đã ký hòa ước Giáp Thân (1884) công nhận quyền bảo hộ của thực dân Pháp. Sau khi đánh chiếm Việt Nam, Pháp thực hiện chính sách bình định. Đây là chỉ thị nhiệm vụ mà Paul Bert giao cho Trương Vĩnh Ký phải thực hiện. Bạn đọc sẽ thấy rõ luận điệu thực dân của Paul Bert nguy hiểm, lừa mị, tẩy não và trói buộc Trương Vĩnh Ký như thế nào. Paul Bert vừa thuyết phục bằng lý lẽ, bằng thực tế, vừa hứa hẹn những lợi lộc, vừa trói buộc rằng: nước An Nam, những nhà nho yêu nước An Nam không có con đường nào khác ngoài con đường hợp tác với Pháp. Đừng cứng đầu chống đối Pháp nữa… Ngày nay người ta gọi đó là sách lược “Cây gậy và củ cà rốt”.
Xin đọc:
“Kính tiên sinh
. . . .
Thuở xưa nước Pháp tin rằng mình có trách nhiệm bảo hộ cho các tín đồ Thiên Chúa giáo, bởi lẽ nước Pháp tin rằng, đạo Thiên Chúa là cao thượng hơn các đạo khác của dân ngoại quốc nên mới dùng thế lực của cường quốc mà giúp cho đạo Thiên Chúa bành trướng ra…
Cuộc cách mạng 1789 đã từ bỏ cái lý thuyết ấy rồi. Nước Pháp không cần phải tin rằng mình có quyền truyền đạo nữa, cũng không công nhận một tôn giáo nào đại diện cho quốc gia, và Công giáo chỉ được hỗ trợ tiền cũng như Tin Lành, Do Thái giáo và đạo Hồi. Vậy nên ở ngoại quốc, nước Pháp tôn vinh tôn giáo của Đức Chúa cũng không hơn gì tôn giáo của Mahomet. Nhưng họ lại được giao phó một nhiệm vụ lớn lao hơn. Nước Pháp trở nên người canh gác và bảo hộ cho quyền tự do tín ngưỡng, không thể nào ngoảnh mặt làm ngơ trước cảnh trong địa phận của họ hay trên những xứ sở có sự hiện diện của họ lại có một người nào bị hành quyết, bị trừng phạt bởi đức tin tôn giáo của người đó. Họ sẽ can thiệp, nhưng không phải là đòi hỏi được thiên vị, mà là quyền bình đẳng và công lý dưới sự bảo trợ của nước Pháp.
. . . . . .
Xin tiên sinh hãy truyền đạt lại điều này cho các nhà nho, hãy cho họ thấy rõ rằng một cuộc chiến tôn giáo trong thời đại này là vô nghĩa và chỉ gây thêm họa. Tôi sẽ không bao giờ nhúng tay vào việc đó.
Tiên sinh cũng có thể nói với họ những gì mà tôi đã nói với tiên sinh dạo nọ.
Nước Pháp sẽ không từ bỏ những xứ sở này, xin hãy kìm các kỳ vọng lại, những lợi ích ràng buộc tại đây quan trọng đến nỗi, không kể đến danh dự quốc gia, chỉ một cuộc chiến ở châu Âu cũng không thể nào khiến chúng tôi lùi bước được. Chúng tôi chỉ có thể bị buộc thu hẹp phần chiếm đóng và ngay khi hoà bình lập lại, chúng tôi sẽ tấn công lại, còn dữ dội hơn.
Vả lại, giả dụ như có một vận hội bất khả nào đó xảy ra khiến cho nước Pháp phải từ bỏ vị thế hiện nay, thì liệu các ngài có tin rằng nước An Nam có thể giành lại được độc lập tự chủ như dưới thời Gia Long và Minh Mạng? Nhầm to! Người Anh hay người Tây Ban Nha hay đúng hơn là người Đức sẽ nhẩy vào cuộc ngay, và lúc đó người An Nam sẽ cân đong xem họ được thua những gì! Các ngài sẽ biết thế nào là cái tính bạo tàn của quân lính nước Đức!
Phải, dù có thế nào cũng sẽ có một nước khác ở châu Âu đến An Nam chiếm cứ. Tại sao vậy? Bởi vì trong lịch sử các dân tộc có những điều cần yếu không thể tránh khỏi, đó cũng chính là lúc tấm lòng ái quốc cần phải phát huy.
. . . . . .
Dù chúng ta có muốn hay không vòng quay biến chuyển ấy đang ngày một nhanh thêm. Ấn Độ đã chịu sự chiếm trị của người Anh, Miến Điện cũng vậy, nước Xiêm La đang cần một người chỉ huy, Nhật Bản thì đang sửa soạn cải cách lấy mình, Trung Hoa thì phải chịu để cho tư tưởng Âu Tây tràn vào. Các quốc đảo nhỏ phải chịu ảnh hưởng của người Hòa Lan. Tôi vẫn biết chắc điều này không lẽ vững chắc đời đời được, nhưng buộc phải kinh qua: An Nam không thể nào tránh khỏi số mạng ấy.
May thay, An Nam lại gặp được một dân tộc ôn hòa, quảng đại nhất, biết thương xót kẻ yếu hơn mình. Nước Pháp không hề tàn bạo, hủy phá bao giờ. Các ngài hẳn có quyền phiền trách về những hành động bạo lực hồi mới chiếm trị, nhưng đó chỉ là hành động nhất thời, và bây giờ tôi đến đây ngừng những điều hung bạo ấy lại, thay đổi cách thức cai trị sao cho thích hợp với tinh thần của đất nước tôi.
Những người An Nam yêu nước phải giúp đỡ tôi hoàn thành nhiệm vụ này. Nếu cứ mãi cứng đầu chống đối một cách vô ích, họ sẽ tàn phá chính đất nước mình và làm nảy sinh thêm những điều hung bạo. Làng mạc bị đốt, dân chúng lao đao vì nạn đói, mọi sinh hoạt đều bị đình trệ, đó chính là hệ quả của sự kháng cự. Tôi đánh giá cao tinh thần đó, nhưng đó là một tội lỗi, một sự vô ích và sẽ trở nên một tội ác chống lại quê hương.
Khi hòa bình lập lại, các ngài cũng hiểu rằng người Pháp không có ham muốn nào khác là dìu dắt và làm cho nước An Nam thịnh vượng…
. . . . . . .
Bức thư này thật dài, tôi xin tóm tắt lại như sau: Xin hãy thưa lại với các bằng hữu nho gia của ngài, những nhà nho lỗi lạc của nước An Nam rằng, trong việc thi hành hiệp ước, họ không có gì phải lo sợ cho phẩm giá, cho quyền tự do tư tưởng và cho những lợi ích của họ cả. Vậy nên thay vì rảo khắp thôn quê xúi giục dân nghèo làm điều mất nhà, vong mạng, họ nên hợp tác với tôi vì sự thịnh vượng của nước nhà. Bất luận về phương diện nào, họ cũng có thể đắc chí về công trình của họ và về chính họ nữa.
Trân trọng. Paul Bert.”[[3]].
TRƯƠNG VĨNH KÝ HỒI ĐÁP PAUL BERT
Ngày 7 Tháng 7 Năm 1886
Kính thưa ngài Bộ trưởng,
Bức thư ngày 29 tháng 6 của ngài đã diễn giải cho tôi những ý tưởng cao thượng về vấn đề đạo giáo cũng như vận mệnh của nước An Nam, càng chứng tỏ rằng ngài là người trí cao tài rộng. Bởi lẽ ngài là chính trị gia, cũng đồng thời là triết gia và học giả.
Tôi đã dịch bức thư ngài gửi đến Hàn Lâm Chưởng viện học sĩ. Tôi đoan chắc rằng lá thư sẽ được tán thưởng và tác động tốt lên tư tưởng của các học sĩ. Sau đó lá thư sẽ được trình lên Hoàng hượng ngự xem, cùng với một bức thư của tôi, để từ đó Người có thể rút ra một hiểu dụ.
. . . . . .
Nhân dịp này, tôi cũng xin báo với ngài một chuyện. Mặc dù ngài đã có ý gửi gắm với quan Tổng đốc Sài gòn, ông Villard, Quyền Giám đốc Nha Nội Vụ lại ra một nghị định vào đúng ngày mà tôi rời đi (mùng 7 tháng 6), theo đó, tôi sẽ nghỉ 3 tháng không lương bổng. Tôi cho ngài hay biết việc xuẩn ngốc này để ngài hiểu thêm về những điều tôi đã viết cho ngài, rằng quanh tôi có nhiều người ganh ghét tôi, ngu ngốc thậm chí là hung ác, họ có thể và biết cách hãm hại tôi. Nhưng chính tình bạn tuyệt vời của ngài đã báo cái thù đấy cho tôi rồi…”
***
Thư của Paul Bert tập trung đánh phá vào tư tưởng yêu nước chống Pháp của các nhà nho yêu nước.
Hắn lập luận rằng, trong xu thế của chủ nghĩa thực dân, nếu Pháp không vào Việt Nam thì “Người Anh hay người Tây Ban Nha hay đúng hơn là người Đức sẽ nhẩy vào cuộc ngay,” và “An Nam không thể nào tránh khỏi số mạng ấy”. Từ đây hắn ca ngợi công đức người Pháp: “May thay, An Nam lại gặp được một dân tộc ôn hòa, quảng đại nhất, biết thương xót kẻ yếu hơn mình. Nước Pháp không hề tàn bạo, hủy phá bao giờ”và đưa ra tư tưởng “Pháp Việt đề huề: “người Pháp không có ham muốn nào khác là dìu dắt và làm cho nước An Nam thịnh vượng…”. Hắn răn đe các nhà nho yêu nước: “Nếu cứ mãi cứng đầu chống đối một cách vô ích, họ sẽ tàn phá chính đất nước mình và làm nảy sinh thêm những điều hung bạo”; “họ nên hợp tác với tôi vì sự thịnh vượng của nước nhà.”. Sau cùng hắn đưa ra “củ cà rốt”: “Xin hãy thưa lại với các bằng hữu nho gia của ngài, những nhà nho lỗi lạc của nước An Nam rằng, trong việc thi hành hiệp ước, họ không có gì phải lo sợ cho phẩm giá, cho quyền tự do tư tưởng và cho những lợi ích của họ cả”; “Bất luận về phương diện nào, họ cũng có thể đắc chí về công trình của họ và về chính họ nữa”.
Trong thư hồi đáp, Trương Vĩnh Ký xác nhận mình đã thực hiện nhiệm vụ tư tưởng mà Paul Bert giao: “Tôi đã dịch bức thư ngài gửi đến Hàn Lâm Chưởng viện học sĩ. Tôi đoan chắc rằng lá thư sẽ được tán thưởng và tác động tốt lên tư tưởng của các học sĩ. Sau đó lá thư sẽ được trình lên Hoàng hượng ngự xem, cùng với một bức thư của tôi, để từ đó Người có thể rút ra một hiểu dụ…”
“Tác động tốt lên tư tưởng” có nghĩa là, vua Đồng Khánh và triều định sẽ thấm nhuần những luận điệu thực dân của Paul Bert và thực hiện những yêu cầu của hắn, tức là: chấp nhận Pháp bảo hộ (vì đó là số phận không thể khác), hợp tác với Pháp để “làm cho nước An Nam thịnh vượng” và ngưng các cuộc đấu tranh chống Pháp: “Vậy nên thay vì rảo khắp thôn quê xúi giục dân nghèo làm điều mất nhà, vong mạng, họ nên hợp tác với tôi vì sự thịnh vượng của nước nhà.”
Rõ ràng thư của Paul Bert và hồi đáp của Trương Vĩnh Ký là sự hợp tác chặt chẽ của một tên thực dân “cáo già”(một chính trị gia, một triết gia) và một người bản xứ “hiểu biết thời thế”) ngoan ngõan khuất phục, để thực hiện việc bình định Việt Nam, một đất nước vừa bị Pháp xâm lược. Paul Bert đánh thẳng vào đầu não cao nhất của nhà nước Việt Nam là vua Đồng Khánh, và tầng lớp nhà nho (các quan chủ chốt, các thượng thư), đặc biệt là những sĩ phu yêu nước, những người đang nắm vận mệnh đất nước. Nhiệm vụ tư tưởng này của Paul Bert lợi hại và nguy hiểm biết chừng nào cho cuộc đấu tranh của dân tộc.
Vua Đồng Khánh 1886
- Báo cáo Trương Vĩnh Ký gửi Noel Pardon, quyền Thống Đốc Nam kỳ 2 tháng (10 & 11/ 1887), người thay thế Paul Bert.
Ngày 15/01/1887, Noel Pardon yêu cầu Trương Vĩnh Ký báo cáo:
“…Tôi xin ông vui lòng gửi đến cho tôi, càng sớm càng tốt, trong một bản báo cáo rõ ràng tất cả những tin tức mà địa vị của ông lúc trước cho phép. Ông thu lượm được về sự làm việc của bộ máy cai trị mà ông có phần dính vào, cùng với những nhận xét riêng của ông về những cải cách mà theo ý ông, phải được đem vào những công vụ ấy.
Ông sẽ đính kèm theo nếu ông thấy là cần, những nhận xét chung từ hiểu biết của ông về đất nước, về dân tộc An Nam, và về những cung cách cai trị ở Nam kỳ”
Trương Vĩnh Ký hồi đáp Noel Pardon (19/01/1887) như sau, xin trích:
“…Trước hết, lấy khoan nhượng mà đi tới một sự thỏa hiệp giữa hai nước, làm dịu sự sôi sục của đôi bên, làm vơi đi lòng căm thù của những nhà ái quốc có uy tín, và như ông đã biết, đó là mục tiêu chính của ông Paul Bert trong sứ mạng của ông ở Bắc Kỳ và An Nam. Ông Paul Bert có lòng cho tôi được dự phần vào công tác đó và lấy đó mà khéo léo sắp đặt tôi vào Cơ Mật viện của Đức Hoàng Thượng. Từ chỗ đó, sau nhiều khó khăn và nỗi lực, tôi đã có thể theo đuổi được mục tiêu bấy lâu hằng mong ngóng: một hiệp ước mới và chung cuộc giữa hai nước”…
“…Về phần tôi, được đưa vào Viện Cơ Mật, vai trò của tôi là đảm bảo sao cho Đức Hoàng Thượng và triều đình tin ở những ý định tốt lành của chính phủ Pháp đối với họ, và hảo ý muốn hướng dẫn đường lối chính trị của họ rập theo nước Pháp. Còn về những vấn đề công cụ hành chính của nền bảo hộ thì tôi hoàn toàn xa lạ, nên không bàn đến ở đây.
Thưa ông chủ sự, ông cũng hiểu vì sao tôi phải nói sơ lược mà trình với ông bản tóm tắt của một nghiên cứu mà đáng lẽ phải phân tích rộng thêm nhiều. Tuy vậy, tôi hoàn toàn đặt mình dưới quyền sai bảo của ngài toàn quyền, để trực tiếp nói với ngài tất cả những thông tin, mà ngài muốn biết vể cách nhìn của chính phủ An Nam, về tình hình tư tưởng và nguyện vọng của nhân dân.
Xin nhận nơi tôi lòng tôn kính sâu sắc”
***
Đọc “báo cáo” này, người đọc thấy rõ Trương Vĩnh Ký đã thực hiện nhiệm vụ của một nhân viên báo cáo cấp trên “tất cả những tin tức mà địa vị của ông lúc trước cho phép. Ông thu lượm được về sự làm việc của bộ máy cai trị mà ông có phần dính vào,..”.
Trương Vĩnh Ký nói rõ mục tiêu chính của ông Paul Bert trong sứ mạng của ông ở Bắc Kỳ và An Nam là. “làm vơi đi lòng căm thù của những nhà ái quốc có uy tín”, tức là nhiệm vụ bình định những cuộc khởi nghĩa yêu nước.
Trương Vĩnh Ký cũng nói rõ Paul Bert đã “khéo léo sắp đặt ông vào Cơ Mật viện với nhiệm vụ: “vào Viện Cơ Mật, vai trò của tôi là đảm bảo sao cho Đức Hoàng Thượng và triều đình tin ở những ý định tốt lành của chính phủ Pháp đối với họ, và hảo ý muốn hướng dẫn đường lối chính trị của họ rập theo nước Pháp”, tức là nhiệm vụ thuần hóa chính quyền An Nam theo yêu cầu của thực dân Pháp.
Đọc hồi đáp của Trương Vĩnh Ký với Noel Pardon, chúng ta mới thấy Paul Bert là một tên thực dân cự kỳ nguy hiểm trong việc cài cắm Trương Vĩnh Ký vào Cơ Mật Viện để thực hiện sách lược bình định Việt Nam!
4.Thư gửi Paul Vial, Tổng trú sứ Trung và Bắc kỳ, người thay Paul Bert, ngày 18/12/1886, Trương Vĩnh Ký viết: “Chính sách mà tôi theo đuổi trên cương vị khó khăn của tôi ở Huế cũng là chính sách của ông Paul Bert mà tôi chỉ biết chắm chúi làm theo.”(tức là những nhiệm vụ được nêu trong thư của Paul Bert ngày 29/6/1886 ở trên).
- Thư viết cho ông nghị Chavanne, Trương Vĩnh Ký khẳng định về vai trò và ảnh hưởng của mình đối với vua Đồng Khánh: “Với sự hỗ trợ của tôi, nhà vua trẻ tuổi sẽ hoàn toàn bị nước Pháp chinh phục”(x. Trương Vĩnh Ký nỗi oan thế kỷ, tr. 270, đd).
***
Có thể nói gọn một lời, chính người Pháp đã đưa Trương Vĩnh Ký vào những vị trí cần thiết (Cơ Mật viện) để thực hiện nhiệm vụ chính trị. Trương Vĩnh Ký đã hành động một cách có ý thức, nhiệm vụ của một thuộc cấp cho Pháp. Sự nguy hiểm lớn lao cho dân tộc là ở chỗ, những “báo cáo” chính trị của Trương Vĩnh Ký được viết bằng tầm vóc của một nhà trí thức có những nghiên cứu khoa học, khách quan; có tầm nhìn chiến lược, có thể giúp Pháp hiểu rõ hiện tình nhà nước Việt Nam, từ đó điều chỉnh sách lược thống trị. (xin đọc Báo cáo Trương Vĩnh Ký gửi Noel Pardon).
Những “báo cáo” của Trương Vĩnh Ký cũng thể hiện điều này: Trương Vĩnh Ký ra sức chứng minh lòng trung thành của mình với cấp trên: “Thưa ông chủ sự … tôi hoàn toàn đặt mình dưới quyền sai bảo của ngài toàn quyền, để trực tiếp nói với ngài tất cả những thông tin, mà ngài muốn biết vể cách nhìn của chính phủ An Nam, về tình hình tư tưởng và nguyện vọng của nhân dân.”(Thư hồi đáp Noel Pardon năm 1887). Có lẽ là để lấy lòng người Pháp và tìm sự bảo vệ, bởi vì ông biết rõ xung quanh có nhiều người ganh ghét ông.
Điều đáng tiếc là Trương Vĩnh Ký đã ảo tưởng khi hợp tác với Pháp. Có lẽ vì lý tường Tự do-Bình đẳng-Bác ái của cách mạng Pháp chăng mà ông ra làm việc với người Pháp? Nhưng ông đã để bị cuốn vào những mưu đồ của Paul Bert, nhằm bình định những cuộc đấu tranh của người Việt Nam chống Pháp. Hãy nghe Paul Bert răn đe: “Những người An Nam yêu nước … Nếu cứ mãi cứng đầu chống đối một cách vô ích, họ sẽ tàn phá chính đất nước mình và làm nảy sinh thêm những điều hung bạo”; “các ngài cũng hiểu rằng người Pháp không có ham muốn nào khác là dìu dắt và làm cho nước An Nam thịnh vượng…”.
CON ĐƯỜNG TƯ TƯỞNG
Là một người được đào tạo trong Chủng viện Công giáo, chắc chắn thế giới quan, nhân sinh quan, ứng xử văn hóa và lối sống của Trương Vĩnh Ký chịu sự quyết định của Thần học, Triết học và văn hóa Kitô giáo. Tuy nhiên, trong những thư từ trao đổi với người Pháp, Trương Vĩnh Ký không thể hiện những tư tưởng này. Có lúc ông đã phê phán quyết liệt hành động quá khích của người Công giáo. Tại sao vậy? Bởi vì Chúa Giêsu dạy: “Ngươi phải yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Ðó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”(Mt 22, 37-40). Thực tiễn trái với lời dạy ấy. Không phải tình cờ mà trong chuyến đi Bắc, Trương Vĩnh Ký đã đến thăm Cụ Sáu (Lm.Trần Lục) và Giám mục Puginier. Ông nhận xét tình hình tôn giáo:
“Người Công giáo và người không theo đạo căm ghét nhau sâu sắc, và trong các biến cố gần đây, nếu như các nhà nho và những người không theo đạo đã gây ra những tội ác tàn bạo, thì sự thực là người Công giáo trả miếng cũng không thua kém chút nào…Tôi xin kể ra trường hợp của Tổng đốc tỉnh Nam Định, người đã chứng kiến làng mình bị cướp phá, phóng hỏa và phần lớn người thân trong gia đình thiệt mạng vì các cuộc tấn công của người Ki tô…”(Báo cáo Trương Vĩnh Ký gửi đô đốc qua trung gian của ông Regnault de Premesnil, Tham mưu trưởng ngày 28/4/1876-đd)
THƯ GỬI ĐỐC PHỦ CA
Thư Trương Vĩnh Ký gửi Đốc phủ Ca giúp người đọc hiểu rõ tư tưởng của Trương Vĩnh Ký. Ông trả lời nhiều câu hỏi của Ca (tô đậm).
Xin trích:
Trước tiên Trương Vĩnh Ký trả lời câu hỏi về việc ông không vào dân tây:
“…làm sao tôi không chịu vào dân tây: Tôi lấy sự ấy làm trái lý tự nhiên…Không lý trời sanh tôi ra là con quạ bây giờ biểu tôi thì một hai nói tôi là con cò làm sao đặng? Nên là điều trái sự tự nhiên hết sức.”
“Tại sao tôi không ra làm quan?
…Tôi nghĩ rằng làm huyện, làm phủ mặc dầu, cũng ở dưới tay người ta, người ta sai cắt hành hạ, tánh tôi không chịu được… chi bằng mình sẵn làm ông thầy dạy học, lại dạy là dạy Tây các quan. Sao sao cũng là ông thầy các quan. Không phải phục tùng ai…Kỳ trung làm được ông thầy như tôi vậy là vinh hết sức.
“Tôi cam chịu thiếu của cải”.
Ông hỏi tôi ý làm sao không lo về phần của cải? Sao không mua đất sắm ruộng kiếm tiền bạc mà tiêu dùng?…
Thật thì ai cũng phải lo về sau nhưng mà xét cho cùng mà coi thì cũng chẳng nên lo cho quá lắm làm chi. Vì vạn sự bất do nhơn kế giảo, nhứt sanh đô thị mạng an bài. Chi bằng y thực tùy duyên, tự nhiên khoái lạc; có nhiều ăn nhiều, có ít ăn ít thì được vui vẻ, yên lòng yên trí. Nhơn vì vậy cho nên… Trí mạng chí nhơn kiến lợi bất động, lâm từ bất oán, là vì làm vậy
Tự nhiên trời phú cho như vậy. Tôi vô tâm không có lòng ham tiền…
Cao bay xa chạy cũng không qua khỏi trời: duyên phận chừng ấy thôi chẳng dám cượng cầu. Trong bụng nghĩ sao nói ra ngay làm vậy cho ông biết.
“Tôi không quen nịnh hót”
Tôi lại có tánh trời sanh cũng dị là chứng ngay thẳng thật thà, không ngoa mị đãi bui được, cứ mực thước, trong lòng làm sao ngoài miệng làm vậy…Trời sanh tôi ra như vậy, cái đó làm ra khác không dễ được. Vì tôi cứ lòng ngay tình thiệt mà ở như vậy, biết làm sao?
Tôi lại thấy mình không đoan trang việc giao du là vì bởi cái mạng mình là “Sơn hạ chí hỏa” nên hay mắc nghi nan, mình nói lành ra dữ, làm phải ra quấy, người ta cũng cắt nghĩa trái cái việc mình làm phải, mà tuy chẳng can hệ chi lắm mặc lòng, cũng khó cho người ta thật lòng với mình. Cái mạng nó khiến nó bắt phải mắc phải chịu lời ăn tiếng nói người ta mãi: tin rồi lại không tin, yêu rồi lại lạt lòng yêu đi…ấy là thường hay mắc. Nên biết mạng mình như vậy thì chẳng dám làm quan, làm lớn cho lắm, sợ e hay nó…nhưng mà tôi hay giữ một lòng thủy chung như nhứt, dầu làm mất lòng mình đi, cũng cứ ở một…trở lòng ở chẳng phải với tôi…trước sau như vậy mà ở phải…không đem lòng giận hờn oán trách…thói giao thiệp tôi với người ta thì như vậy…tri âm thì ít mà mộng mị thì nhiều… Vì vậy nên buồn, cứ phận mà ở, cứ việc mình mà làm…coi sách coi vở, học mót chút đỉnh…không muốn đua bơi tranh hùng…Đâu rầy rà tranh cạnh…
“Tại sao tôi đắc thời mà không ở lại làm quan tại triều?”
…Ở đời xử đám công danh là khó lắm, đua đường danh lợi là hiểm nghèo lắm; một là nên hai là hư, mà hư thì thường thường nhiều hơn, hễ mê hễ đắm ham hố quá thì làm sao cũng phải mắc chẳng sai. Vì vậy tôi bắt chước Trương Lương dụng khí Minh triết bảo thân, là lo xét coi vọi nhầm chừng cho biết đường tấn thối mới rứt mình ra khỏi bẫy được…
…
Về Nam chưa được bao lâu giây thép đánh vô rằng quan toàn quyền mất đi rồi, thì tôi nghĩ việc sẽ ra khó vì tân quan tân chế độ, việc mình làm ra sẽ khó lắm nên tôi đánh giây théo ra rằng tôi không ra nữa…
Ấy thời thế trời đã đổi dời, không dám chen vai vào đám chánh sự nữa, vì hiểm nghèo là một, sau nữa là có mình nữa cũng chẳng làm thêm được việc chi cho vua cùng triều đình nhờ, nên dứt đi một cái cho xong, tránh đường danh nẻo lợi về xứ an phận tùy duyên cho khỏi lòng ràng buộc.
“Tại sao người ta nghi nan tôi?”
Anh hỏi tôi làm gì cho người ta ganh ghét, nghi nan làm vậy?
Nào tôi có làm gì đâu! Cứ an thường thủ phận, lo học hành, tìm sách vở, biên chép in ra cho trẻ con đời nay nó học cho mau cho tiện. Vậy đó thôi chớ có làm gì đâu? Lo dạy bằng miệng bằng sách, phong hóa cang thường ngày càng kém đi vì đời nay trẻ nhỏ ít học…Tôi nghe anh nói, tôi xét mình tôi hoài, mà nhơn có danh một chút vì hay tìm hay học, rộng biết việc kia việc nọ…thì người ta có khi tưởng cũng nghĩ rằng người thạo đời hoặc có khi khai nhân mình từng biết mà sanh sự mống lòng chồm ố công danh lợi lộc, cướp đàng danh nẻo lợi người ta đi chăng, nên người ta sanh lòng nghi nan mà thôi.
…tôi nhờ ăn học mà biết thức thời thức thế, coi đạo đời biết việc thường biến cải, đường nó đi như vậy rồi, là việc trời làm, là việc đấng tạo hóa đã sắp nó xay vần ra như thế, ai mà chống nổi trời, mà hòng nghĩ có bụng quấy phá, muốn khuấy đời làm chi. Việc riêng mình lo không hết, ai công đâu mà đi làm những việc phi phận sự làm chi.
Nói sơ một chút vậy thì anh hiểu được rồi. Còn lời ăn tiếng nói người ta thì có lo chi? Ai có khỏi mà lo? Hễ sự thiệt thì sẽ là sự thiệt…
***
Không rõ Trương Vĩnh Ký gửi lá thư này cho Đốc Phủ Ca năm nào. Tài liệu nguồn của Nguyễn Đình Đầu không ghi ngày tháng. Vì thế khó lý giải chính xác những điều Trương Vĩnh Ký trao đổi với Ca.
Đốc phủ Ca là Trần Tử Ca, tri huyện Bình Long (nay là Hóc Môn), một cộng sự đắc lực của thực dân Pháp. Ngày 9/2/1885, trong cuộc khởi nghĩa 18 Thôn Vườn Trầu, nghĩa quân do Phan Công Hớn và Nguyễn Văn Quá chỉ huy đã bắt và chém đầu Trần Tử Ca.
Như vậy Trương Vĩnh Ký phải viết thư này trước tháng 2/1885.
Lần theo bước chân Trương Vĩnh Ký (dẫn theo Trương Vĩnh Ký nỗi oan thế kỷ, tr. 49)
Ngày 11/2/1876, theo đề nghị của Renan và Garroz, Petrus Trương Vĩnh Ký trở thành hội viên Hội Á Châu (Société Asiatique)
Tháng 7/ 1885 Đồng Khánh lên ngôi
Đầu năm 1886, Paul Bert (11/1833-11/1886) được bổ nhiệm làm thống sứ An Nam và Bắc Kỳ.
Tháng 4/1886, Trương Vĩnh Ký theo Paul Bert ra Huế nhận nhiệm vụ ở Cơ Mật viện.
Tháng 8/1886 Ký trở về Sài gòn vì bệnh phổi
28/1/1889 Đồng Khánh chết
1890 Ký về hưu
Thư của Trương Vĩnh Ký viết trước khi ông theo Paul Bert ra Huế nhận nhiệm vụ ở Cơ Mật Viện. Vậy những gì ông viết về việc không ra làm quan, tại sao người ta nghi nan ông phải được hiểu thế nào? Vì sau đó (1886) ông mới vào Cơ Mật Viện, sau đó Paul Bert và vua Đồng Khánh qua đời, ông mất chỗ dựa! Trong thư Trương Vĩnh Ký viết: “quan toàn quyền mất đi rồi, thì tôi nghĩ việc sẽ ra khó vì tân quan tân chế độ”(Paul Bert mất tháng 11/ 1886), nghĩa là Trương Vĩnh Ký phải viết thư này sau tháng 11/1886?
Hãy cứ tin rằng văn bản thư Trương Vĩnh Ký là thật để ta có thể hiểu hành trình tư tưởng của ông:
Mặc dù ông được đào tạo Thần học, nhưng Thần học không chi phối tư tưởng của ông.
Trương Vĩnh Ký thiên về sống triết lý phương Đông. Ông tin vào Thiên mệnh: “Trời sanh tôi ra như vậy, cái đó làm ra khác không dễ được”. Ông biết mạng của mình: “mạng mình là “Sơn hạ chí hỏa” nên hay mắc nghi nan”, vì thế “Nên biết mạng mình như vậy thì chẳng dám làm quan, làm lớn…”.
Ông chọn thái độ an nhiên: “Vì vạn sự bất do nhơn kế giảo, nhứt sanh đô thị mạng an bài. Chi bằng y thực tùy duyên, tự nhiên khoái lạc; có nhiều ăn nhiều, có ít ăn ít thì được vui vẻ, yên lòng yên trí. Nhơn vì vậy cho nên… Trí mạng chí nhơn kiến lợi bất động, lâm từ bất oán, là vì làm vậy”; “Cao bay xa chạy cũng không qua khỏi trời: duyên phận chừng ấy thôi chẳng dám cượng cầu.”;
Ông cũng chọn cách sống thuận theo mệnh trời: “tôi nhờ ăn học mà biết thức thời thức thế, coi đạo đời biết việc thường biến cải, đường nó đi như vậy rồi, là việc trời làm, là việc đấng tạo hóa đã sắp nó xay vần ra như thế, ai mà chống nổi trời, mà hòng nghĩ có bụng quấy phá, muốn khuấy đời làm chi. Việc riêng mình lo không hết, ai công đâu mà đi làm những việc phi phận sự làm chi.”
Qua những gì Trương Vĩnh Ký trả lời Đốc Phủ Ca, ông thể hiện ý thức sâu sắc về lẽ trời, về Thiên Mệnh và xác nhận mình sống thuận theo mệnh trời. Tất cả hành động của ông đều là “việc riêng”, là “phận sự”, “là việc đấng tạo hóa đã sắp nó xay vần ra như thế”. Ông không bận tâm đến sự khen chê của người đời. “Còn lời ăn tiếng nói người ta thì có lo chi? Ai có khỏi mà lo? Hễ sự thiệt thì sẽ là sự thiệt…”.
Điều ngạc nhiên là, Trương Vĩnh Ký là trí thức tây học, uyên bác đông tây kim cổ, lại có dịp đi Tây và làm việc với người Pháp, song ông vẫn sống như một nhà Nho, tin vào Thiên Mệnh. Khi đắc thời thì nhập thế cuộc “kinh bang tế thế”, khi không gặp thời thì về ở ẩn: “y thực tùy duyên, tự nhiên khoái lạc; có nhiều ăn nhiều, có ít ăn ít thì được vui vẻ, yên lòng yên trí. Nhơn vì vậy cho nên… Trí mạng chí nhơn kiến lợi bất động, lâm từ bất oán, là vì làm vậy”; “an thường thủ phận, lo học hành, tìm sách vở, biên chép in ra cho trẻ con đời nay nó học cho mau cho tiện…”.
Dường như ông cố giữ lấy cốt cách của một nhà khoa học và phẩm hạnh của một nhà Nho. Là nhà khoa học, để tâm nghiên cứu nhiều lĩnh vực, kể cả tình hình chính trị. Là nhà Nho, ông quan sát, tự tra hỏi về Thiên Mệnh, để sống thuận theo ý trời. Và vì thế, Việc riêng mình lo không hết, ai công đâu mà đi làm những việc phi phận sự làm chi.”; “Còn lời ăn tiếng nói người ta thì có lo chi? Ai có khỏi mà lo? Hễ sự thiệt thì sẽ là sự thiệt…”.
VÀ SỰ THẤT BẠI…
Lịch sử chống thực dân Pháp của dân tộc Việt Nam từ năm 1858 đến 1930 là lịch sử hào hùng nhưng bi thương. Mọi nỗ lực đấu tranh giành độc lập đều thất bại: phong trào Cần vương của vua Hàm Nghi (1885), các cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng, Đinh Công Tráng, Nguyễn Thiện Thuật…đều bị Thực dân Pháp đàn áp đẫm máu. Các cuộc đấu tranh cách mạng của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học, dù đã vận động theo xu hướng mới của thời đại, cũng không đánh đuổi được người Pháp.
Sĩ phu Nho học cuối thế kỷ XIX có ba xu hướng tư tưởng: Chống Pháp đến cùng như Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888), rút về ở ẩn như Nguyễn Khuyến (1835-1909), hợp tác với Pháp như Tôn Thọ Tường (1825-1877), Hoàng Cao Khải (1850-1933)…
Sống giữa một thời đại bão táp của chủ nghĩa thực dân, hoàn cảnh dân tộc “đau thương mà anh dũng” như vậy của lịch sử, Trương Vĩnh Ký (1837-1898), dù là một nhà “bác học”, dù muốn “yêu nước theo cách riêng”, cũng không thể tránh khỏi thất bại.
Ông biết rõ điều này: “Ấy thời thế trời đã đổi dời, không dám chen vai vào đám chánh sự nữa, vỉ hiểm nghèo là một, sau nữa là có mình nữa cũng chẳng làm thêm được việc chi cho vua cùng triều đình nhờ, nên dứt đi một cái cho xong, tránh đường danh nẻo lợi về xứ an phận tùy duyên cho khỏi lòng ràng buộc” (Thư gửi Đốc phủ Ca). Bởi đó là một tất yếu lịch sử khi chủ nghĩa thực dân xâm lược và thống trị thế giới (Paul Bert đã nói rõ với Trương Vĩnh Ký-đã dẫn ở trên), và triều đình phong kiến Việt Nam quá hèn yếu, bảo thủ.
Cho nên, việc Trương Vĩnh Ký hợp tác với Pháp để canh tân đất nước, chỉ là sự “ngây thơ” của một trí thức Tây học trước những những con “cáo già “ thực dân như Paul Bert hay Paul Vial. Chữ “ngây thơ” là của Richard Cortambert nhận xét về Trương Vĩnh Ký năm 1864, khi Trương Vĩnh Ký theo phái bộ Phan Thanh Giản sang Pháp. Richard Cortambert còn gọi Trương Vĩnh Ký là Nhà triết học thông thái [[4]], khen Trương Vĩnh Ký có tầm hiểu biết sâu rộng hơn cả vị giáo sư thông thái người Pháp. Ông thân thiện và trân trọng Trương Vĩnh Ký, nhưng trước sau chỉ gọi Trương Vĩnh Ký là một “Viên thông ngôn An‐Nam”, không gọi bằng danh xưng trí thức nào khác. Richard Cortambert nói Trương Vĩnh Ký “ngây thơ” không phân biệt được gái điếm và con nhà lành ở Pháp, “ngây thơ” vì Trương Vĩnh Ký là một người dân thuộc địa lại muốn in sách ở Pháp …tức là ông có tri thức sách vở nhưng không biết gì thực tiễn?
Trương Vĩnh Ký là người được đào tạo Tây học, ông thấm nhần tinh thần Tự do-Bình đẳng-Bác ái của cách mạng Pháp 1789, nhất là dịp ông đi Pháp, tiếp xúc với nhiều trí thức Pháp. Nhưng căn cốt của ông là người Việt Nam, lớn lên và sống với văn hóa Việt. Ông khẳng định: “Trời sanh tôi ra như vậy, cái đó làm ra khác không dễ được”. Thực tế lịch sử buộc ông phải có thái độ trách nhiệm với bản thân, với xã hội và với đất nước. Và đây là nhận thức trách nhiệm của ông:
Ông viết: “Đời sống xã hội cần đến tư tưởng Nho giáo, là cội gốc trong tôi và trong đời sống xã hội…Tôi sẽ thuyết phục được các nhà Nho rằng An Nam không thể tiến lên nếu không có nước Pháp, cũng không thể chống cự lại, rằng cần phải cùng bước đi tay trong tay, không toan tính và chúng tôi cần biết tranh thủ những thiện ý giúp đỡ từ một người như ngài”(Thư gửi Paul Bert ngày 17/6/1886).
Tất nhiên thực tế lịch sử xâm lược, đàn áp của thực dân Pháp đối với dân tộc ta, đồng bào ta đã cho ông thấy sự chọn lựa của ông là “ngây thơ”; ông nhận ra một thực tế là ông có tài, có thiện ý nhưng không thể làm được gì cho đất nước này (không sao thoát ra được sự khống chế của bọn thực dân): “Ấy thời thế trời đã đổi dời, không dám chen vai vào đám chánh sự nữa, vỉ hiểm nghèo là một, sau nữa là có mình nữa cũng chẳng làm thêm được việc chi cho vua cùng triều đình nhờ,”
Ông trở về với cái “phận” của mình và tự vấn: “Nào tôi có làm gì đâu! Cứ an thường thủ phận, lo học hành, tìm sách vở, biên chép in ra cho trẻ con đời nay nó học cho mau cho tiện. Vậy đó thôi chớ có làm gì đâu? Lo dạy bằng miệng bằng sách, phong hóa cang thường ngày càng kém đi vì đời nay trẻ nhỏ ít học…Tôi nghe anh nói, tôi xét mình tôi hoài,…”(Thư gửi Đốc Phủ Ca, đd).
Đúng là ông “có làm gì đâu?”. Ông không có bản điều trần nào gửi triều đình trình bày kế sách canh tân đất nước để giành độc lập như Đặng Đức Tuấn (1806-1874) hay Nguyễn Trường Tộ (1830-1871). Trong các thư từ ông gửi cho người Pháp, không có lời nào ông tố cáo tội ác của thực dân Pháp đối với dân tộc ta. Cũng không có lời nào cổ vũ các cuộc đấu tranh của đồng bào. Ông chỉ một lòng phục vụ người Pháp: “tôi hoàn toàn đặt mình dưới quyền sai bảo của ngài toàn quyền, để trực tiếp nói với ngài tất cả những thông tin, mà ngài muốn biết vể cách nhìn của chính phủ An Nam, về tình hình tư tưởng và nguyện vọng của nhân dân”(Thư Trương Vĩnh Ký hồi đáp Noel Pardong 1887, đd).
Đàng khác, Trương Vĩnh Ký lại nhiệt tình trình bày những quan sát, những nghiên cứu chính trị về An Nam, cung cấp nhiều thông tin quan trọng cho chiến lược bình định của Pháp đối với Việt Nam. Xin đọc thư Trương Vĩnh Ký gửi Paul Bert ngày 10/5/1886: “Bằng các mối quan hệ của mình, tôi cũng ra sức để cung cấp cho ngài những chỉ dẫn hữu ích về chính trị. Tôi hoàn toàn ủng hộ kế hoạch sáng suốt của ông Pène trong việc trưng dụng người bản xứ trong công cuộc bình địa và tôi có thêm vào đó sự đóng góp của Đức Vua và Viện Cơ Mật. Như người mở đường cho Đấng Cứu Thế, tôi cố gắng đưa ngài đi một con đường bằng phẳng cũng như hết lòng truyền bá cho người đời biết về uy tín và thanh danh của ngài”[[5]]. Sau khi Paul Bert chết (1886) và vua Đồng Khánh qua đời (1889), sau khi tự tra vấn lại đời mình rẳng “Nào tôi có làm gì đâu!”, ông mới về hưu? (1890).
LỜI BẠT
(Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Phan Thanh Giản Hoàng Hoa Thám)
Trương Vĩnh Ký đã tự phủ định mình, rằng: “Nào tôi có làm gì đâu! Cứ an thường thủ phận, lo học hành, tìm sách vở, biên chép in ra cho trẻ con đời nay nó học cho mau cho tiện. Vậy đó thôi chớ có làm gì đâu? Lo dạy bằng miệng bằng sách, phong hóa cang thường ngày càng kém đi vì đời nay trẻ nhỏ ít học…”, vì vậy, hậu thế nên lắng nghe và thông cảm với ông.
Xin đặt Trương Vĩnh Ký (1837-1898) vào dòng chảy lịch sử Việt Nam từ 1858 đến 1930: ông ở vị trí nào bên cạnh Phan Thanh Giản (1796-1867), Nguyễn Tri Phương (1800-1873), Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888), Hoàng Diệu (1829-1882), Thủ Khoa Huân (1830-1875), Nguyễn Khuyến (1835-1909), Hoàng Hoa Thám (1836-1913), Đinh Công Tráng (1842-1887), Nguyễn Thiện Thuật (1844-1926), Phan Bội Châu (1867-1940), Phan Chu Trinh (1872-1926), Nguyễn Thái Học (1902-1930)…?
Các cựu chủng sinh Penang cùng thời với Trương Vĩnh Ký, có các linh mục tử vì đạo được Giáo hoàng John Paul II tuyên Thánh vào ngày 19/6/1988 là: Philip Phan Văn Minh bị xử trảm 3-7-1853, Lm Paul Lê Văn Lộc, bị xử trảm ngày 13/ 2/1859 tại Gia Định. Lm Joseph Đoàn công Quí bị xử trảm ngày 31/7/1859 tại Châu Đốc. Lm Joseph Nguyễn Văn Lựu bị xử trảm ngày 7/ 4/ 1861 tại Mỹ Tho. Pétrus Trương Vĩnh Ký không được phúc tử đạo như các bạn. Ông cũng không can trường tuyên xưng đức tin như các giáo dân: Hương thân Hòa, Bà Nhứt Lành, Elizabeth Ngọ, Chú Ngoạn mà ông kể cho các bạn trong thư Penang ngày 4/2/1859[6]
Không thể yêu cầu ông làm những việc quá sức mình (chống Pháp), vì ông chỉ là một trí thức tay trắng (không có thế lực chính trị, không có sức mạnh dân tộc). Không thể đòi ông làm những việc quá phận mình, vì ông chỉ là một viên thông ngôn, một nhân viên được cài cắm vào Cơ Mật Viện; càng không nên kỳ vọng vào ông khi tầm nhìn lịch sử của ông bị giới hạn trong thế giới quan Nho giáo, “ngây thơ” trước hiểm họa của chủ nghĩa thực dân. Ông chưa tiếp cận được ánh sáng cách mạng, dù ông học rộng và đi Tây, gặp gỡ nhiều trí thức Pháp (điều này phải chờ đến Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Ái Quốc sau ông). Ông có thể yên vị là một nhà văn hóa có đóng góp cho sự phát triển văn hóa dân tộc.
Lịch sử chỉ tôn vinh những người đã sống, cống hiến, và hy sinh vì dân vì nước.
Tháng 5/ 2025
_________________________________
[1] Nguyễn Vy Khanh-Trương Vĩnh Ký và một số vấn đề văn bản, lối nhìn. Nguồn: Hiện tượng Trương Vĩnh Ký-đd
[2] Vua Đồng Khánh trả lời Trương Vĩnh Ký khi ông trở về Sài gòn. Đồng Khánh viết một bài Lục bát dài 236 câu khen ngợi tài đức Trương Vĩnh Ký, bày tỏ tình cảm quý mến rất mực của nhà vua với bầy tôi trung và tặng cho Ký nhiều quà quý. Xem Trương Vĩnh Ký nỗi oan thế kỷ, tr. 287, đd.
[3] Nguyễn Đình Đầu- Trương Vĩnh Ký nỗi oan thế kỷ, tr. 255-258. đd
[4] Nguyễn Vy Khanh- Trương Vĩnh Ký và chuyến Âu‐du 1863‐1864, giới thiệu bài Cảm tưởng của người Việt ‐ Nam ở Âu châu : nhà thông‐ngôn Pétrus Trương Vĩnh Ký của Richard Cortambert. https://nghiencuulichsu.com/2015/08/03/truong-vinh-ky-va-chuyen-au%E2%80%90du-1863%E2%80%901864/
[5] Nguyễn Đình Đầu-Trương Vĩnh Ký nỗi oan tế kỷ. tr 252 (đd)
[6]Trương Vĩnh Ký- Winston Phan Đào Nguyên-Lá Thư Penang Của Petrus Trương Vĩnh Ký