HỌC TẬP PHƯƠNG PHÁP RAO GIẢNG CỦA ĐỨC GIÊSU
Bùi Công Thuấn
***

Trong 3 năm rao giảng Tin Mừng Nước Trời, Đức Giêsu đã dùng nhiều hình thức, phương cách giáo dục tùy vào hoàn cảnh và đối tượng. Ngài đã chọn lựa và huấn luyện đức tin cho 12 tông đồ, để sau khi Chúa về trời, các Tông đồ kế tục sứ mệnh của Người.
Về giáo dục, Đức Giêsu là bậc thầy lớn về tâm linh, tư tưởng, và đạo đức. Ngài có quyền lực trên thiên nhiên tạo vật, trên sự sống và cái chết; quyền lực trên ma quỷ và trên mọi vua chúa thế gian.
Về ngôn ngữ, Lời của Ngài là Lời Cứu rỗi, không một nhà tư tưởng nào sánh được. Phương pháp rao giảng của Ngài có sức cảm hóa tâm linh người nghe.
Những ai tiếp bước con đường của Đức Giêsu cần học theo phương pháp rao giảng của Chúa.
NỘI DUNG
1.Rao giảng bằng lời trực tiếp 2.Rao giảng bằng dụ ngôn 3.Rao giảng bằng phép lạ 4.Rao giảng bằng tranh luận 5.Rao giảng trong sinh hoạt đời thường 6.Huấn luyện đức tin |
***
- RAO GIẢNG BẰNG LỜI TRỰC TIẾP
Rao giảng bằng Lời là phương pháp Đức Giêsu sử dụng nhiều nhất.
“Thế rồi Đức Giê-su đi khắp miền Ga-li-lê, giảng dạy trong các hội đường của họ, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền của dân (Mt. 4:23)…vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư của họ. (Mt 7:29).
Có những lời công bố, những lời khuyên, lời tâm sự, lời cảnh báo, cả lời “nguyền rủa”với từng đối tượng, trong từng hoàn cảnh cụ thể.
Giáo Hội đã đặt tất cả Lời Đức Giêsu rao giảng thành “Lời Chúa”. Tức là, Lời Cứu rỗi, Lời Đức Tin, Lời Thánh thiêng, Lời chỉ dùng trong Phụng tự. Đức Giêsu là Ngôi Lời. Gioannói về Đức Giêsu: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa” (Ga 1,1).
Vì thế, Lời Chúa rao giảng có những phẩm chất riêng, khác với ngôn ngữ sinh hoạt,ngôn ngữ thế tục. Những người có sứ vụ rao giảng Lời Chúa không được tục hóa Kinh thánh là vậy.
Trong Kinh thánh, khi rao giảng trực tiếp, Đức Giêsu sử dụng nhiều cách nói (phương pháp ngôn ngữ, kiểu ngôn ngữ, giọng điệu…). Nhờ thế Lời Chúa cũng có sức gây ấn tượng, cảm hóa lý trí và soi sáng tâm linh người nghe. Ngôn ngữ Kinh thánh là ngôn ngữ hình ảnh. Các vấn đề được đặt trong mối quan hệ tương phản và trong cấu trúc lập luận. Thái độ của Chúa là thái độ khẳng định chân lý. Diễn ngôn hướng trực tiếp đến tâm hồn đối tượng nghe.
Xin đọc:
Thí dụ 1: TÁM MỐI PHÚC (Mt 5,1-12)
“Thấy đám đông, Đức Giê-su lên núi. Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên. Người mở miệng dạy họ rằng:
Phúc thay.ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.
Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.
Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.
Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng.
Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.
Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.
Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ.
Phúc cho anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế”.
Nhận xét:
Đối tượng nghe Chúa giảng dạy là “đám đông” dân chúng nghèo đi theo Chúa. Chúa Hướng về đối tượng này ngay từ lời đầu tiên (Mối phúc 1). Tiếp theo, Chúa chia sẻ với những người đau khổ, những người hiền lành, người công chính, những người bị bách hại (đa số họ cũng là người nghèo) và sau cùng là những môn đệ của Chúa. Lời Chúa đem đến cho tất cả đối tượng trên niềm an ủi và niềm hy vọng.
Nội dung giáo dục: Chúa dạy đức tin về Nước Trời, về Thiên Chúa là Đấng giàu lòng xót thương. Chúa giáo dục những đức tính: hiền lành, trong sạch, công chính, yêu hòa bình. Chúa cũng báo trước những bách hại và phần thưởng lớn lao ở trên trời cho ai theo Chúa.
Về kiểu ngôn ngữ: Tám mối phúc được trình bày chính luận (lập luận để thuyết phục bằng lý trí, nhận thức), kiểu lập luận nhân-quả: “Phúc thay…. Vì…”.
Về tu từ, đoạn văn sử dụng Phép đảo và phép điệp cấu trúc vì thế tư tưởng được nhấn mạnh và có giá trị khẳng định chân lý.
Về kiểu tư duy, vấn đề được trình bày tương phản. Chúa đưa ra lập trường chân lý về các “Mối phúc” trái ngược với với những chuẩn mực của người đời. Chẳng hạn, với người đời thì giàu sang mới là hạnh phúc. Trái lại, Chúa khẳng định: “Phúc thay.ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”. Cũng vậy, với người đời, bị bách hại là điều đau khổ, trái lại Chúa khẳng định, khi anh em bị bách hại vì Chúa thì hãy vui mừng…
Kiểu tư duy và nghệ thuật ngôn ngữ ấy đã tạo nên giá trị đặc biệt của Lời Chúa. “Tám mối phúc” là bài giảng trên núi, trở thành “Tuyên ngôn nước trời”. Giá trị chân lý của “Tám mối phúc” có tính tuyệt đối. Xin lưu ý rằng, đây là “Tuyên ngôn tâm linh”, “Tuyên ngôn đức tin”, không phải “Tuyên ngôn xã hội” vì thế mọi tranh biện không có đức tin đều vô nghĩa.
Cũng từ đây, ta nhận ra một quy luật: ngôn ngữ giảng của Linh mục hay của người dạy giáo lý cần học theo kiểu ngôn ngữ rao giảng của Chúa. Tất nhiên, tư tưởng Thần học quyết định giá trị nội dung bài giảng. Một bài giảng, chỉ nói chuyện đời thường, không đạt đến những căn cốt tư tưởng Thần học, sẽ không đem ơn Chúa đến cho người nghe.
Thí dụ 2 : CHÚA CHO LAZARO SỐNG LẠI (Ga 11, 1-45)
“Khi đến nơi, Đức Giêsu thấy anh La-da-rô đã chôn trong mồ được bốn ngày rồi.Bêtania cách Giêrusalem không đầy ba cây số. Nhiều người Do thái đến chia buồn với hai cô Mácta và Maria, vì em các cô mới qua đời.
Vừa được tin Đức Giêsu đến, cô Mácta liền ra đón Người. Còn cô Maria thì ngồi ở nhà.
Cô Mácta nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết. Nhưng bây giờ con biết: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy.”
Đức Giêsu nói: “Em chị sẽ sống lại!”
Cô Mácta thưa: “Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết.”
Đức Giêsu liền phán: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù
đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không?”
Cô Mácta đáp: “Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa,
Đấng phải đến thế gian.”
Nói xong, cô đi gọi em là Ma-ri-a, và nói nhỏ: “Thầy đến rồi, Thầy gọi em đấy!”
Nghe vậy, cô Maria vội đứng lên và đến với Đức Giêsu. Lúc đó, Người chưa vào làng, nhưng vẫn còn ở chỗ cô Mácta đã ra đón Người. Những người Do thái đang ở trong nhà với cô Maria để chia buồn, thấy cô vội vã đứng dậy đi ra, liền đi theo, tưởng rằng cô ra mộ khóc em. Khi đến gần Đức Giêsu, cô Maria vừa thấy Người, liền phủ phục dưới chân và nói: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết.”
Thấy cô khóc, và những người Do thái đi với cô cũng khóc, Đức Giêsu thổn thức trong lòng và xao xuyến. Người hỏi: “Các người để xác anh ấy ở đâu?”. Họ trả lời: “Thưa Thầy, mời Thầy đến mà xem.”
Đức Giêsu liền khóc.
Người Do thái mới nói: “Kìa xem! Ông ta thương anh Ladarô biết mấy!”
Có vài người trong nhóm họ nói: “Ông ta đã mở mắt cho người mù, lại không thể làm cho anh ấy khỏi chết ư?”
Đức Giêsu lại thổn thức trong lòng. Người đi tới mộ. Ngôi mộ đó là một cái hang có phiến đá đậy lại. Đức Giê-su nói: “Đem phiến đá này đi.”
Cô Mácta là chị người chết liền nói: “Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày.”
Đức Giêsu bảo: “Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?”
Rồi người ta đem phiến đá đi. Đức Giê-su ngước mắt lên và nói: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con. Phần con, con biết Cha hằng nhậm lời con, nhưng vì dân chúng đứng quanh đây, nên con đã nói để họ tin là Cha đã sai con.”
Nói xong, Người kêu lớn tiếng: “Anh La-da-rô, hãy ra khỏi mồ!”
Người chết liền ra, chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn.
Đức Giê-su bảo: “Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi.”
Nhận xét:
Hoàn cảnh ngôn ngữ: sinh hoạt đời thường, thăm viếng gia đình có người chết. Kiểu ngôn ngữ tâm tình, chia sẻ, an ủi.
Mục đích giao tiếp: Chúa thăm viếng nhà Lazaro, và qua Macta và Maria, Chúa giáo dục đức tin cho mọi người đặc biệt là “dân chúng đứng quanh đây”, Đức Giêsu đã thưa với Chúa Cha: “nên con đã nói để họ tin…”
Nội dung giao tiếp là công việc đời thường. Chúa thăm hỏi gia đình chị em Macta, nói chuyện về sự sống, sự chết và khẳng định đức tin cho họ. Chúa cũng sắp đặt phương án với các tông đồ, và chỉ bảo công việc cho người nhà. Rồi Đức Giêsu xin ý Chuá Cha và làm phép lạ cho Lazaro sống lại.
Ngôn ngữ giao tiếp: Chúa vẫn dùng kiểu câu khẳng định để đưa ra những chân lý đứctin. Đức Giêsu nói: “Em chị sẽ sống lại!” và khẳng định: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không?”
Nhưng Đức Giêsu đã không trả lời Maria và không đối thoại với người Do Thái xung quanh, dù có người nói khích: “Ông ta đã mở mắt cho người mù, lại không thể làm cho anh ấy khỏi chết ư?”
Đặc biệt Lời Đức Giêsu nói với Chúa Cha có giá trị mạc khải Thần học rất quan trọng về Chúa Cha, về Thần tính của Đức Giêsu và mối quan hệ giữa Đức Giêsu và Thiên Chúa Cha: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con. Phần con, con biết Cha hằng nhậm lời con, nhưng vì dân chúng đứng quanh đây, nên con đã nói để họ tin là Cha đã sai con.”
Phương pháp ngôn ngữ của Kinh Thánh là phương pháp đối thoại. Vấn đề được đặt trong tương quan vừa thuận chiều, vừa trái chiều (ngôn ngữ tranh luận). Lời nói của Chúa và Macta vừa có nghĩa tường minh, vừa hàm nghĩa ẩn dụ. Nền tảng của đối thoại giao tiếp giữa Đức Giêsu và Macta là đức tin, không phải tranh cãi khoa học hay luận bàn triết học về vấn đề “sống”, “chết”.
Xin quan sát đoạn đối thoại này:
“Đức Giêsu nói: “Em chị sẽ sống lại!”
Cô Mácta thưa: “Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết.”
Đức Giêsu liền phán: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không?”
Cô Mácta đáp: “Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian.”
Ngôn ngữ cuộc “tranh luận” giao thoa giữa ý nghĩa tường minh và ý nghĩa ẩn dụ. Macta nhận thức rõ Lazaro đã chết (trong thực tế-nghĩa tường minh) và không thể sống lại. Macta nói theo đức tin rằng, Lazaro sẽ sống lại trong ngày phán xét chung. Lời nói của Mácta vừa đồng thuận, vừa phủ định lời của Chúa nói về Laza rô: “Em chị sẽ sống lại”. Theo Macta, Lazaro đã chết, và theo quy luật tự nhiên, Lazao sẽ không sống lại. Chị nghĩ rằng Chúa nói bằng ngôn ngữ ẩn dụ. Nhưng Chúa khẳng định bằng ngôn ngữ giao tiếp tường minh: “Em chị sẽ sống lại”..
Lời Đức Giêsu nói chuyện với Chúa Cha cũng là ngôn ngữ đối thoại tường minh, điều này giúp dân chúng nhận ra Chúa Cha gần gũi và thân thiết với Chúa Con, gần gũi với loài người thế nào. Nhưng ngay sau đó, Chúa nói bằng ngôn ngữ ẩn dụ, ngôn ngữ của đức tin: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không?”
Ta nhận thức được gì về phương cách rao giảng của Chúa trong đoạn Kinh thánh này?
Lời nói của Chúa và của Mácta tập trung thể hiện và giáo dục đức tin. Lời đặt trên nền tảng đức tin. Vì thế việc tiếp thu Lời Chúa cũng phải trên nền tảng đức tin. Diễn ngôn trung tâm là: “Thưa Thầy, con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian.” , và Lời Đức Giêsu khẳng định: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống…”
Khi Đức Giêsu cho Lazaro sống lại thì những Lời Chúa vừa nói đã trở thành chân lý hiển nhiên trong thực tại, củng cố đức tin cho chị em Macta và có sức thuyết phục nhân loại.
Điều này chỉ ra một nguyên tắc ngôn ngữ nhà đạo: muốn loan báo Tin Mừng, ta phải dùng ngôn ngữ của đức tin, và chỉ đối thoại được với người khác trên cùng một nền tảng đức tin.
Thí dụ 3: ĐỐI THOẠI VỚI PHILATO (Ga 18, 33-38)
“Ông Phi-la-tô trở vào dinh, cho gọi Đức Giê-su và nói với Người: -“Ông có phải là vua dân Do-thái không?”
Đức Giê-su đáp: -“Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi?”
Ông Phi-la-tô trả lời: -“Tôi là người Do-thái sao? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì?”
Đức Giê-su trả lời: –“Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do-thái. Nhưng nay Nước tôi không thuộc chốn này.”
Ông Phi-la-tô liền hỏi: -“Vậy ông là vua sao?”
Đức Giê-su đáp : -“Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian vì điều này: đó là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi.”
Ông Phi-la-tô nói với Người: -“Sự thật là gì?”
Nói thế rồi, ông lại ra gặp người Do-thái và bảo họ: -“Phần ta, ta không tìm thấy lý do nào để kết tội ông ấy”(Ga 18, 33-38)
Sau đó, Philato sai dem Đức Giêsu đi đánh đòn. Bọn lính chế nhạo Người. Dân chúng đòi đóng đinh Người
“Ông lại trở vào dinh và nói với Đức Giê-su: -“Ông từ đâu mà đến?”
Nhưng Đức Giê-su không trả lời.
Ông Phi-la-tô mới nói với Người: -“Ông không trả lời tôi ư? Ông không biết rằng tôi có quyền tha và cũng có quyền đóng đinh ông vào thập giá sao?”
Đức Giê-su đáp lại: -“Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài. Vì thế, kẻ nộp tôi cho ngài thì mắc tội nặng hơn.”(Ga 19, 9-11)
Nhận xét:
Hoàn cảnh ngôn ngữ: Đức Giêsu bị bắt, công chúng đòi đóng đinh Người. Họ yêu cầu Tổng trấn Philato kết án Người. Lời nói của Người trong hoàn cảnh này quyết định sự sống chết. Nhưng cũng chính hoàn cảnh này, Đức Giêssu làm rõ hiện thể và sứ mệnh của mình. Thái độ của Chúa đã trở thành bản án cho Philato, bởi Philato biết Chúa vô tội. Ông nói với người Do Thái: -“Phần ta, ta không tìm thấy lý do nào để kết tội ông ấy”. Lẽ ra ông phải tha Chúa, nhưng trái lại, trước sức ép của công chúng, ông cho lính đánh đòn Đức Giêsu và trao Đức Giêsu cho người Do Thái đóng đinh Người. Và ông đã chối tội: “Tổng trấn Philatô thấy đã chẳng được ích gì mà còn thêm náo động, nên lấy nước rửa tay trước mặt đám đông mà nói: “Ta vô can trong vụ đổ máu người này. Mặc các ngươi liệu lấy!”(Mt 27, 24)
Ngôn ngữ của Đức Giêsu:
Mọi lời chất vấn của Philatô đều có mục đích tìm chứng cớ để kết tội Đức Giêsu. Nhưng Philatô phải thừa nhận: -“Phần ta, ta không tìm thấy lý do nào để kết tội ông ấy”.
Lời của Đức Giêsu là lời của Người có quyền lực trên cả Philatô. Quyền lực ấy nằm trong diễn ngôn của Đức Giêsu, kiểu diễn ngôn có tính triết học và Thần học mà Philatô không thể hiểu. Đức Giêsu nói: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian vì điều này: đó là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi.” Philatô nói với Người: -“Sự thật là gì?”. Nhưng Đức Giêsu không trả lời. Philatô đe dọa dùng quyển lực với Chúa, nhưng Đức Giêsu phủ định ngay: -“Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài. Vì thế, kẻ nộp tôi cho ngài thì mắc tội nặng hơn”. Từ vị thế Người bị kết tội, Đức Giêsu trở thành Người luận tội Philatô.
Trong đoạn đối thoại này, Đức Giêsu xác định rõ sứ mạng của Giáo hội: –“Nước tôi không thuộc về thế gian này”;…”Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian vì điều này: đó là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi.”
Bạn hãy trả lời câu hỏi của Philatô: -“Sự thật là gì?”.
Trong đọan đối thoại, có những khoảng im lặng, Chúa không trả lời Philato. Đó cũng là một kiểu ngôn ngữ (Ngôn ngữ của im lặng, Chúa để Philatô tự trả lời). Thực ra chiều hướng suy nghĩ của Philatô quá khác biệt với Chúa, lại đang diễn ra trong một hoàn cảnh vô cùng quyết liệt đến nỗi không thể đối thoại, cho nên đối thoại của Philatô với Chúa như đối thoại của kẻ điếc. Ngôn ngữ của Chúa cũng là ngôn ngữ quyết liệt: Chúa lật đổ Philatô tức khắc: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài”.Và nếu ông ta biết được “Sự thật là gì”, chắc chắn ông ta phải sấp mình thờ lạy Ngài.
Học tập ngộn ngữ rao giảng của Chúa: Ngôn ngữ của “Sự thật”
Đoạn Kinh thánh của Gioan soi sáng cho ta nhiều điều về phương pháp rao giảng bằng Lời của Đức Giêsu. Dù trong hoàn cảnh sinh tử, Đức Giêsu cũng chỉ có một mục đích là loan báo Tin Mừng. Trong một cuộc “hỏi cung”, Lời của Đức Giêsu thật lạ lùng, làm kinh ngạc mọi người: – “Nước tôi không thuộc về thế gian này”… ;”Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian vì điều này: đó là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi.” Ngài dùng ngôn ngữ ẩn dụ và nghệ thuật lập luận để nói với “kẻ thù” nên Philatô không thể bắt bẻ Chúa điều gì. Ngài cũng tỏ rõ “nhân cách” và Thần tính của Thiên Chúa trước mặt Philatô (điều này Philatô bị mù, không nhận ra). Ngài là chứng nhân của sự thật nên mọi sự gian trá đều bị bóc trần (chẳng hạn, sự giả hình của Philatô).
Thí dụ 4: “KHỐN CHO CÁC NGƯỜI” (Tin mừng: Mt 23, 13-22”)
“But woe to you, scribes and Phariseers, hypocritest!” (Mt 23, 13)
“Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người khoá cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào! Các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các người cũng không để họ vào.
Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ, cho nên các người sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn.
Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người rảo khắp biển cả đất liền để rủ cho được một người theo đạo; nhưng khi họ theo rồi, các người lại làm cho họ đáng xuống hỏa ngục gấp đôi các người.
Khốn cho các người, những kẻ dẫn đường mù quáng! Các người bảo: ‘Ai chỉ Đền Thờ mà thề, thì có thề cũng như không; còn ai chỉ vàng trong Đền Thờ mà thề, thì bị ràng buộc.’ Đồ ngu si mù quáng! Thế thì vàng hay Đền Thờ là nơi làm cho vàng nên của thánh, cái nào trọng hơn?
Các người còn nói: ‘Ai chỉ bàn thờ mà thề, thì có thề cũng như không; nhưng ai chỉ lễ vật trên bàn thờ mà thề, thì bị ràng buộc.’ Đồ mù quáng! Thế thì lễ vật hay bàn thờ là nơi làm cho lễ vật nên của thánh, cái nào trọng hơn?
Vậy ai chỉ bàn thờ mà thề, là chỉ bàn thờ và mọi sự trên bàn thờ mà thề. Và ai chỉ Đền Thờ mà thề, là chỉ Đền Thờ và Đấng ngự ở đó mà thề. Và ai chỉ trời mà thề, là chỉ ngai Thiên Chúa và cả Thiên Chúa ngự trên đó mà thề”.
…
“Đồ mãng xà, nòi rắn độc kia! Các người trốn đâu cho khỏi hình phạt hoả ngục? (Serpents, brood of vipers! How can you escape the condemnation of hell?)
Vì thế, này tôi sai ngôn sứ, hiền nhân và kinh sư đến cùng các người: các người sẽ giết và đóng đinh người này vào thập giá, đánh đòn người kia trong hội đường và lùng bắt họ từ thành này đến thành khác. Như vậy, máu của tất cả những người công chính đã đổ xuống đất, thì cũng đổ xuống đầu các người, từ máu ông A-ben, người công chính, đến máu ông Da-ca-ri-a, con ông Bê-rê-ki-a, mà các người đã giết giữa đền thánh và bàn thờ. Tôi bảo thật các người: tất cả những tội ấy sẽ đổ xuống đầu thế hệ này”(Mt, 23. 33-36).
Nhận xét:
Hoàn cảnh ngôn ngữ: Đức Giêsu đối thoạt trực tiếp với các kinh sư và người Pharisêu giả hình (“But woe to you, scribes anh Pharisees, hypocrites!”)[[1]]. Chúa nguyền rủa sự đồi bại đạo đức của họ, Chúa tố cáo những thủ đoạn gian manh của họ và kết án nặng nề những “tội khốn nạn” họ gây ra cho dân.
Đặc điểm ngôn ngữ: Đoạn văn này, ngôn ngữ của Đức Giêsu gây ấn tượng tâm linh rất mạnh. Đó là ngôn ngữ đối thoại trực tiếp, là “lời nguyền rủa, lên án và kết tội”, không kiêng nể (theo phép lịch sự thế gian): “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình!”; “Đồ ngu si mù quáng!”, “Đồ mãng xà, nòi rắn độc kia!”
Tại sao Đức Giêsu lạ “nặng lời” với Kinh sư và Pharisêu?
Vì họ xúc phạm Thiên Chúa và hãm hại dân của Người (thuộc điều răn quan trọng nhất là Mến Chúa và yệu người). Chúng ngăn cản người ta tìm đến Nước Thiên Chúa: “Các người khoá cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào! Các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các người cũng không để họ vào”. Chúng coi vàng hơn đền thờ, mà Đền thờ là nơi thờ phượng Thiên Chúa: “ai chỉ Đền Thờ mà thề, là chỉ Đền Thờ và Đấng ngự ở đó mà thề. Và ai chỉ trời mà thề, là chỉ ngai Thiên Chúa và cả Thiên Chúa ngự trên đó mà thề”.Thủ đoạn của chúng là lừa gạt không chừa một ai: “Các người nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ”.
Và đây là sự trừng phạt khủng khiếp, ngôn ngữ vừa là thực, vừa là ẩn dụ: “máu của tất cả những người công chính đã đổ xuống đất, thì cũng đổ xuống đầu các người, từ máu ông A-ben, người công chính, đến máu ông Da-ca-ri-a, con ông Bê-rê-ki-a, mà các người đã giết giữa đền thánh và bàn thờ. Tôi bảo thật các người: tất cả những tội ấy sẽ đổ xuống đầu thế hệ này”.
Kiểu tư duy ngôn ngữ: Khi trình bày những ý tưởng, Đức Giêsu dùng hình ảnh và nhân chứng cụ thể và đặt những ý tưởng ấy trong cấu trúc tương phản. Người vừa phân tích, lý giải, vừa bình luận và trực tiếp bày tỏ thái độ. Nhờ cấu trúc tương phản cùng với những lời kết tội trực tiếp (“Tôi bảo thật các người: tất cả những tội ấy sẽ đổ xuống đầu thế hệ này”), Lời của Đức Giêsu có sức mạnh của những phán quyết ngày Phán xét chung.
Bài học ngôn ngữ: ngay cả khi phải dùng đến kiểu ngôn ngữ “nặng nề” (nguyền rủa, tố cáo, kết án), Đức Giêsu vẫn nói như một người đầy quyền uy về Thiên Chúa. Giá trị Lời của Đức Giêsu là sự khẳng định đức tin vào Thiên Chúa. Mọi sự vi phạm đến đức tin đều không thể chấp nhận. “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người khoá cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào! Các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các người cũng không để họ vào”. Người cũng làm rõ ý nghĩa những hành vi gian trá của bọn giả hình. Đức Giêsu dẫn chứng cụ thể tội ác người Do Thái đã giết các tiên tri: từ thời Adam, khi Cain giết em là Aben (St 4, 11-16) đến Da-ca-ri-a, con ông Bê-rê-ki-a, bị giết giữa đền thánh và bàn thờ. Đức Gie6su đã không nói đến đời sống xã hội hay công kích nhân thân trần gian của Kinh sư và Pharisêu.
Thí dụ 5: LỜI CUỐI ĐỨC GIÊSU NÓI VỚI MÔN ĐỆ (Ga 13, 31-38 và 14, 1-31)
Đoạn Kinh thánh khá dài, tôi xin tóm lược:
Đức Giêsu nói đến thời khắc Con Người được Thiên Chúa Cha tôn vinh. Đức Giêsu ban cho các môn đễ điều răn mới: “anh em hãy Yêu thương nhau như Thầy đã Yêu thương anh em”. Đức Giêsu nói Người đi dọn chỗ cho môn đệ: “Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”. Người cũng mạc khải cho các Tông đồ về Thiên Chúa Cha: “Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy”. Đức Giêsu hứa sẽ xin Chúa Cha ban cho các môn đệ Đấng Bảo Trợ. Người khẳng định: “anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em. Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ Yêu mến Thầy. Mà ai Yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy Yêu mến. Thầy sẽ Yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy.” Sau cùng, Đức Giêsu ban bình an cho các môn đệ: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy”. Người căn dặn: “Lòng anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi”; “Thầy nói với anh em trước khi sự việc xảy ra, để anh em tin khi sự việc ấy xảy ra.”
Hoàn cảnh ngôn ngữ: Đây là một đoạn trong cuộc trò chuyện của Đức Giêsu cùng các môn đệ trước khi Ngài đến Vườn Cây Dầu bước vào Cuộc Khổ Nạn. Ngài thông báo trước cho các môn đệ nhiều điều, ban bình an và an ủi họ. Đặc biệt, Ngài trả lời những câu hỏi của các tông đồ về Mầu nhiệm Chúa Ba ngôi, về giới răn của Chúa, về tương lai sau này và những sự việc sắp xảy ra, tất cả là “để anh em tin khi sự việc ấy xảy ra”.
Đặc điểm ngôn ngữ: Ngôn ngữ của Chúa là những lời tâm tình, là sự thấu hiểu, chia sẻ an ủi, tất cả là để giáo dục và khẳng định đức tin: “Anh em hãy tin Thầy”. Đức Giêsu như một nhà Thần học cắt nghĩa về Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, vừa như một nhà tâm lý, hiểu rõ tâm trạng môn đệ trong giời phút đầy lo lắng, xao xuyến, là vừa như một Tiên tri báo trước cho các môn đệ những việc sắp xảy ra. Đức Giêsu cũng bảo đảm chắc chắn phần thưởng cho các môn đệ của Ngài. “Ngày đó, anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em.”; “Nếu anh em nhân danh Thầy mà xin Thầy điều gì, thì chính Thầy sẽ làm điều đó”(Ga 14, 14).
Nghệ thuật ngôn ngữ: Đức Giêsu đã dùng ngôn ngữ đời thường, kiểu trò chuyện thân tình, dễ hiểu đối thoại trực tiếp, để giảng giải trực tiếp những Mầu nhiệm và truyền lại những điều gan ruột của mình, cắt nghĩa những thắc mắc của các tông đồ. Thậm chí Chúa còn “bóc trần” con người thật của các tông đồ. Chúa nói với Phêrô : “Anh sẽ thí mạng vì Thầy ư? Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: gà chưa gáy, anh đã chối Thầy ba lần”(Ga 13: 38). Những Lời Chúa nói trong đoạn Kinh thánh này là những Tín điều quan trọng bậc nhất của Giáo hội được Chúa khẳng định.
Bài học ngôn ngữ: Để nói những điều hệ trọng về đức tin, những điều gan ruột về sống đạo, hãy dùng ngôn ngữ tâm tình, gần gũi, thấu hiểu, cảm thông và khẳng định. Khi nói về những Mầu nhiệm Thần học, hãy học theo Chúa, trình bày thật dễ hiểu, gần gũi. Và để ngôn ngữ giao tiếp có hiệu quả, hãy đặt mọi vấn đề trên một nề tảng đức tin vững chắc.
Thí dụ 6: NHỮNG LỜI DẠY TRỰC TIẾP
Xin đọc
1.”Luật còn dạy rằng: Ai rẫy vợ, thì phải cho vợ chứng thư ly dị. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ là đẩy vợ đến chỗ ngoại tình; và ai cưới người đàn bà bị rẫy, thì cũng phạm tội ngoại tình”(Mt 5, 31-32)
23.”Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính. Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao?Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao?Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện (Mt 5, 43-48)
Những lời Đức Giê su dạy trực tiếp các môn đệ thường là những bài học đạo đức. Những đạo lý Đức Giêsu dạy thường trổi vượt hơn đạo lý thông thường. Đức Giêsu giảng giải rõ ràng, có thí dụ đời sống để minh giải và thái độ của Chúa dứt khoát, quyết liệt hơn.
Nền tảng tư tưởng của mọi bài học đạo đức là đức tin, vì thế có sức thuyết phục hơn: “hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính…”.Hãy yêu kẻ thù vì họ cũng là con Cha trên trời. Cha trên trời cũng yêu thương họ, ban cho họ mọi điểu tốt lành, như ánh sáng, như mưa xuống cho khắp mọi nhà (Ánh sáng, mưa hàm ý sự sống, ơn Chúa).
II.RAO GIẢNG BẰNG DỤ NGÔN
Dụ ngôn là những câu chuyện có ẩn ý, có nghiã tượng trưng. Nội dung truyện được mãhóa theo những quy luật nghệ thuật, tư tưởng và văn hóa, vì thế việc giải mã dụ ngôn thường không dễ dàng.
Những dụ ngôn (Parable) cuả Chuá thực sự là những tác phẩm văn chương, kiểu truyện ngắn, được Chuá “sáng tác” ngay trong hoàn cảnh thực tại để chuyển tải một thông điệp cho công chúng. Nhưng không phải ai cũng có thể hiểu. Các tông đồ có lần đã phải xin Chúa giảng ý nghĩa dụ ngôn “Cỏ lùng trong ruộng lúa” (Mt 13, 36-43). Cũng có lần Chúa nói: “Ai có tai thì nghe”(If anyone has ears to hear, let hom hear”)(Mc 4, 21-25). Tân Ước Mac-cô (Mark) ghi nhận: “Người dùng nhiều dụ ngôn tương tự mà rao giảng lời cho họ, tuỳ theo mức họ có thể nghe. Người không bao giờ rao giảng cho họ mà không dùng dụ ngôn (Mc 4, 33-34).
Nhưng tại sao dụ ngôn là ẩn dụ khó hiểu nhưng Chúa lại dùng để loan báo Tin Mừng cho công chúng?
Đây là câu trả lời của Đức Giêsu: (Mt 13, 10-17)
“Các môn đệ đến gần hỏi Đức Giê-su rằng: “Sao Thầy lại dùng dụ ngôn mà nói với họ?”
Người đáp: “Bởi vì anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không. Ai đã có thì được cho thêm, và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy mất. Bởi thế, nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là vì họ nhìn mà không nhìn, nghe mà không nghe không hiểu. Thế là đối với họ đã ứng nghiệm lời sấm của ngôn sứ Isaia, rằng: Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy. Vì lòng dân này đã ra đần độn, chúng đã nặng tai, còn mắt thì chúng nhắm lại, kẻo mắt chúng thấy, tai chúng nghe, và lòng hiểu được mà hoán cải, và rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành. “Còn anh em, mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc, vì được nghe. Quả thế, Thầy bảo thật anh em, nhiều ngôn sứ và nhiều người công chính đã mong mỏi thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe”.
Trong đoạn (Mt 13, 10-17) trên, Đức Giêsu cho biết được “thấy điều anh em đang thấy” tức là chứng kiến chính Đức Giêsu đang rao giảng, được “nghe điều anh em đang nghe”, tức là nghe những Lời Chúa dạy và “hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời”, thì “thật có phúc”vì “anh em được ơn”, mà không phải ai cũng được.
Xét về mặt văn bản ngôn ngữ
Công chúng thường thích nghe kể chuyện. Dụ ngôn là kiểu truyện có giá trị thẩm mỹ đặc biệt (truyện hay, có chất trí tuệ) nên Chúa thường dùng Dụ ngôn để nói với họ.
Vì là tác phẩm văn chương, dụ ngôn có hình tượng, có ngôn ngữ đa nghiã, tác động đến nhiều đối tượng người nghe, họ có cảm nhận khác nhau. Hình tượng-tư tưởng làm cho dụ ngôn có sức sống lâu bền và có khả năng cảm hoá sâu xa.
Xét về mặt văn chương và khả năng sáng tạo, những dụ ngôn cuả Chuá quả thực là những truyện ngắn có sức sống vĩnh cửu. Đó không chỉ là truyện hay (giá trị thẩm mỹ) mà còn tác động vào tâm linh, có sức lay động lương tâm mọi thời. Cho đến nay, những dụ ngôn trong Kinh thánh vẫn giữ nguyên ý nghĩa tư tưởng, mặc dù Chúa đã kể dụ ngôn ấy cách đây hơn hai ngàn năm.
Chẳng hạn, xin đọc dụ ngôn Những nén bạc (Mt 25, 14-30). Thời Đức Giêsu tại thế, chưa phải là thời kinh tế thị trường, nhưng vấn đề Chuá đặt ra, tưởng như là một vấn đề hôm nay, vấn đề vốn sinh lời.
Trong Tân Ước, có nhiều dụ ngôn, tôi ghi nhận:
1.Dụ ngôn Người gieo giống (Lc 8, 4-15): dụ ngôn về việc nghe lời rao giảng về Nước Trời
2.Dụ ngôn Cỏ lùng (Mt 13, 24-30). Dụ ngôn về Nước Trời.
3.Dụ ngôn Hạt cải (Mt 13, 31-32). Đức Giê su nói: “Nước Trời cũng giống như chuyện hạt cải người nọ lấy gieo trong ruộng mình”.
4.Dụ ngôn Men trong bột (Mt 13, 33)
5.Dụ ngôn Kho báu và ngọc quý (Mt 13, 44-46)
6.Dụ ngôn Chiếc lưới (Mt 13, 47-50)
7.Dụ ngôn Tên mắc nợ không biết thương xót (Mt 18, 23-35): Dụ ngôn về Nước Trời
8.Dụ ngôn Thợ làm vườn nho (Mt 20, 1-16), Dụ ngôn về Nước Trời
9.Dụ ngôn Hai người con (Mt 21, 28-32), cha sai đi làm vườn nho.
10.Dụ ngôn Những tá điền sát nhân (Mt 21, 33-46): Đức Giêsu dùng hình ảnh tá điền bất trung để nói về Thượng Tế và Pharisêu.
11.Dụ ngôn tiệc cưới (Mt 21, 1-14), “Nước Trời cũng giống như chuyện một vua kia mở tiệc cưới cho con mình” và mời khách dự…
12.Dụ ngôn Người đầy tớ trung tín (Mt 24, 45-54): Thế nào là người trung tín.
13.Dụ ngôn Mười trinh nữ (Mt 25, 1-13), Chúa dạy :“Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào”
14.Dụ ngôn Những nén bạc (Mt 25, 14-30) Chúa nói về đầy tớ trung tín.
15.Dụ ngôn Mù mà lại dắt mù. Cái rác và cái xà (Lc 6, 39-42). Dạy đức khiêm tốn.
16.Dụ ngôn Người cha nhân hậu (Lc 15: 11-32), ẩn dụ cho lòng Chúa xót thương kẻ tội lỗi.
- Dụ ngôn Người samari tốt lành. (Lc 10: 29-37), ẩn dụ để giải thích giới răn.
18.Dụ ngôn Người quản gia bất lương (Lc 16, 1-8), Chúa kết luận: “Quả thế, con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại”.
19.Dụ ngôn Đồng bạc bị đánh mất (Lc 15, 8-10). Đức Giê su kết luận: “Cũng thế, tôi nói cho các ông hay: giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối”
20.Dụ ngôn Con chiên bị mất (Lc 15, 4-7.) Đức Giê su kết luận: “Vậy, tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn”
21.Dụ ngôn Ông nhà giàu và anh La-da-rô nghèo khó (Lc 16, 19-31) kiểu truyện tâm linh Siêu thực, kể truyện: lúc sống, Lazaro nằm trước cổng ông nhà giàu, mụn nhọt đầy mình, mong được những thứ trên bàn ăn của ông nhà giàu rớt xuống mà ăn. Sau khi chết, người nghèo Lazaro được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham, còn Ông nhà giàu được người ta đem chôn. Dưới âm phủ, ông phải khi chịu cực hình. Ông nhà giàu cầu xin tổ phụ Áp-ra-ham nhưng bị từ chối.
22.Dụ ngôn Quan toà bất chính và bà goá quấy rầy (Lc 18 , 1-8). “Đức Giê-su kể cho các môn đệ dụ ngôn sau đây, để dạy các ông phải cầu nguyện luôn, không được nản chí”. Kiểu truyện phiếm chỉ theo phong cách dân gian, có ý ngụ ngôn. Chúa kể: trong thành kia có một quan tòa bất chính bị bà góa kêu nài xin được quan bênh vực đơn kiện. Ông ta nghĩ: “mụ goá này quấy rầy mãi, thì ta bênh vực mụ cho rồi, kẻo mụ ấy cứ đến hoài, làm ta nhức đầu nhức óc”. Chúa kết luận: “Anh em nghe quan toà bất chính ấy nói đó ! 18:7 Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không bênh vực những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người, dù Người có trì hoãn ? Thầy nói cho anh em biết, Người sẽ mau chóng bênh vực họ”.
23.Dụ ngôn Người Pha-ri-sêu và người thu thuế (Lc 18, 9-14). Cả hai cùng lên đền thờ cầu nguyện. Người Pharisêu kể công đức của mình, còn người thu thuế đấm ngực ăn năn. Đức Giêsu kết luận: “Tôi nói cho các ông biết: người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.”
- 24. Dụ ngôn cây vả (Lc 21, 29-33). Đức Giêsu kết luận: “Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu”
- Dụ ngôn “Đừng thu tích của cải cho mình” (Lc 12, 13-21). Kể dụ ngôn người nhà giàu xây những nhà lớn để tích trữ của cải. Đức Giêsu kết luận: “Ấy kẽ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó”.
Hình thức truyện:
Có dụ ngôn chỉ dài 1 dòng kể: “Người còn kể cho họ một dụ ngôn khác: “Nước Trời cũng giống như chuyện nắm men bà kia lấy vùi vào ba đấu bột, cho đến khi tất cả bột dậy men“(Mt 13:33)
Có dụ ngôn là những truyện ngắn có kết cấu rất riêng:
Ông nhà giàu và anh La-da-rô nghèo khó (Lc 16, 19-31) kiểu truyện tâm linh Siêu thực.
Người cha nhân hậu (Lc 15: 11-32), một truyện lấy bối cảnh gia đình trong hiện thực.
Người Samri tốt lành là kiểu truyện đời thường Chúa dùng để giải thích cho “đức yêu người”. Truyện được dùng trong một hoàn cảnh ngôn ngữ àm ý tranh luận, thách đố. Truyện nằm trong cấu trúc lập luận, để thuyết phục Người Thông luật.
Tất cả các dụ ngôn đều lấy bối cảnh, nhân vật, sự việc trong đời thường, gần gũi. Chẳng hạn, chuyện anh em, cha con trong gia đình; người quản gia bất lương, chuyện người làm vườn nho; Chuyện người Pharisêu và người thu thuế, chuyện quan tòa và bà góa, chuyện Lazaro và người nhà giàu, những ẩn dụ về Nước Trời…
Điều đặc sắc trong nghệ thuật sáng tạo của Chúa, những truyện đời thường ấy được kể thành dụ ngôn (tức là kiến tạo thành một tác phẩm văn học hàm nghĩa ẩn dụ). Và Dụ ngôn kết hợp với diễn ngôn trực tiếp (“Thầy bảo thật anh em”), trong cấu trúc lập luận, chuyển thành diễn ngôn tư tưởng, tâm linh. Trong dụ ngôn, Diễn ngôn của Chúa mới là trọng tâm. Diễn ngôn ấy luôn hướng về Thiên Chúa, loan báo Tin Mừng, và giáo dục đức tin cho người nghe Chúa nói.
Chẳng hạn, sau khi kể dụ ngôn Người Samari tốt lành, Đức Giêsu hỏi người thông luật: “Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp ?” Người thông luật trả lời: “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy”. Đức Giê-su bảo ông ta: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy“(Lc 10, 36-37). Diễn ngôn “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy” mới là điều Đức Giêsu muốn nói với mọi người, còn câu chuyện dụ ngôn chỉ là cách Đức Giêsu giảng giải cho thầy Thông luật, bởi vì ai cũng biết đó chỉ là dụ ngôn, truyện hư cấu (không phải chuyện thật xảy ra trong đời).
Những đặc điểm của tư duy ngôn ngữ và phẩm chất sáng tạo của Đức Giêsu đã tạo nên những dụ ngôn tuyệt vời về nghệ thuật, tư tưởng và tâm linh. Hơn thế, Dụ ngôn có khả năng thức tỉnh những ai có thiện tâm lắng nghe Chúa. (Truyện thế tục thường chỉ hướng về phản ánh hiện thực hoặc giải trí, khai thác thị hiếu của người đọc).
Khi Đức Giêsu nói: “Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu” thì Ngài đã vượt lên trên vũ trụ, vượt qua thời gian, không gian trở thành vĩnh cửu. Không một nhà tư tưởng thế tục nào sánh được. Đức Giêsu là bậc thầy văn chương của nhân loại là vì vậy.
Trong suốt lịch sử hơn 2000 năm của Giáo hội, chưa một nhà giảng thuyết nào có thể học theo Chúa, “sáng tác” những dụ ngôn ngay trong hoàn cảnh hiện thực để loan báo Tin Mừng cho người nghe trực tiếp.
III. RAO GIẢNG BẰNG PHÉP LẠ
Việc Chúa làm phép lạ có nhiều ý nghĩa. Trước hết, đó cũng là một hình thức rao giảng bằng hành động. Và điều quan trọng việc Chúa làm phép lạ là để giáo dục đức tin: tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, Ngài cũng là Thiên Chúa. Ngài có quyền lực trên thế gian, trên tự nhiên; quyền lực trên ma quỷ, với sự sống sự chết. Phép lạ Chúa làm vừa có giá trị giáo dục đức tin, vừa củng cố đức tin cho những người theo Chúa.
Chẳng hạn, Chúa cho Lazaro sống lại là để chứng minh lời Ngài nói với Mácta: “Em chị sẽ sống lại!”; nhưng đồng thời khẳng định đức tin rằng: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết.” và xác tín giá trị Lời của Đức Giêsu: “Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu”.
Phép lạ minh chứng cho Đức Giêsu đã chiến thắng sự chết (một quy luật thiên nhiên). Đức Giêsu được Chúa Cha nhậm lời. Phép lạ cũng giáo dục tín lý Thần học về Chúa Ba Ngôi. Chúa Con ở trong Chúa Cha và thực hiện ý Chúa Cha trong mọi hoàn cảnh. Hơn nữa Đức Giêsu có thể giao tiếp trực tiếp với Chúa Cha trước mặt công chúng. Kinh thánh ghi nhận: Đức Giêsu ngước mắt lên và nói: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con. Phần con, con biết Cha hằng nhậm lời con, nhưng vì dân chúng đứng quanh đây, nên con đã nói để họ tin là Cha đã sai con.”
Rao giảng bằng phép lạ thì chỉ Đức Giêsu mới làm được, mặc dù Chúa có cho các tông đồ một vài quyền năng siêu nhiên, song các ông bị giới hạn trong xác phàm:
“Rồi Đức Giê-su gọi mười hai môn đệ lại, ban cho các ông được quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền” (Mt 10, 1).
Đức Giêsu nói với nhóm 72: “Đây, Thầy đã ban cho anh em quyền năng để đạp lên rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực Kẻ Thù, mà chẳng có gì làm hại được anh em.Tuy nhiên, anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời“.(Lc 10, 19-20)
Tuy nhiên Chuá chỉ làm phép lạ khi cần thiết, và điều quan trọng để phép lạ được thực hiện là đức tin. Mỗi khi làm pháp lạ cho một người nào đó, Chuá đều nói đức tin con cứu con.
Thí dụ chưã người đàn bà bị băng huyết:
“ vì bà nghĩ bụng: “Tôi chỉ cần sờ được vào áo của Người thôi là sẽ được cứu!” Đức Giê-su quay lại thấy bà thì nói: “Này con, cứ yên tâm, lòng tin của con đã cứu chữa con“. Và ngay từ giờ ấy, bà được cứu chữa (Mt. 9:21-22)
Thí dụ: Đức Giê-su dẹp yên biển động (Mt 8, 23-27)
Đức Giê-su xuống thuyền, các môn đệ đi theo Người, và kìa biển động mạnh khiến sóng ập vào thuyền. Nhưng Người vẫn ngủ. Các ông lại gần đánh thức Người và nói: “Thưa Ngài, xin cứu chúng con, chúng con chết mất!” Đức Giê-su nói: “Sao nhát thế, hỡi những người kém lòng tin!” Rồi Người chỗi dậy, ngăm đe gió và biển: biển liền lặng như tờ. Các ông ngạc nhiên và nói: “Người này là người thế nào mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”
***
Nhiều lần Chuá từ chối làm phép lạ vì quần chúng kém lòng tin. Lòng tin dưạ trên phép lạ sẽ là sự mê tín. Chúa muốn lòng tin được xác quyết bằng thực tiễn, không phải bằng “phép lạ”. Vì thế Chúa đã bảo với Tô ma “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin.Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Mt 20. 29)
Đức Giêsu đã nói, ngoài dấu lạ Giona, không còn phép lạ nào nữa: “Khi đám đông tụ họp đông đảo, Đức Giê-su bắt đầu nói: “Thế hệ này là một thế hệ gian ác; chúng xin dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được thấy dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giô-na.”(Lc 11, 29)
Cho nên, nếu người rao giảng Tin Mừng mà làm “dấu lạ”, thì đó chỉ là “trò diễn”. Tuy nhiên, Chúa vẫn ban ơn riêng cho người tin Chúa và cậy trông lòng Chúa thương xót:
“Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho (Mt 6, 31-33).
III. RAO GIẢNG BẰNG TRANH LUẬN
Nhiều lần Chuá trực tiếp tranh luận với người Pharisêu. Những vấn đề thật gai góc. Chuá là không né tránh đối thoại. Thái độ tranh luận là triệt để, đi cho đến tận cùng chân lý. Đức Giêsu cũng bóc trần thâm ý của người Pharisêu (tức là lật tẩy mục đích tranh luận), làm lộ ra bản chất xấu xa của họ. Về phương diện này, Đức Giêsu là một nhà hùng biện có lý lẽ sắc xảo, lập luận vững chắc, có tri thức uyên bác trong mọi vấn đề (của thế giới thực tại, cả vương quốc của Thiên Chúa, vượt thời gian, không gian).
Nhưng dù tranh luận vấn đề gì, sau khi giải quyết vấn đề được đặt ra, Chúa luôn hướng đến loan báo Tin Mừng, hướng đến giáo dục đức tin. Người vượt qua những khía cạnh xã hội mà người Phariseu đặt ra để giăng bẫy..
Trong đời sống thực tiễn, khi rao giảng Tin Mừng, nhiều khi ta cũng cần tranh luận trực diện vấn đề đức tin. Thí dụ: thuyết Tiến hóa, Chủ nghĩa Duy vật vô thần, Chủ nghĩa thế tục, Chủ nghĩa cá nhân vị kỷ, những khác biệt văn hóa giữa các tôn giáo…,
Chẳng hạn sự khác biệt tôn giáo trong hôn nhân, về đạo hiếu, về việc thờ cúng ông bà…Phật giáo cho rằng sau 49 ngày, người chết đã đi đầu thai vào 1 trong 6 cõi. Tùy theo nghiệp quả, họ có thể về cõi Phật, cõi Trời, cõi Tiên, cõi người, cõi súc sinh, hay cõi ngạ quỷ. Trái lại, đạo Hiếu cho rằng, ông bà sau khi chết, vẫn ở với con cháu (không đi đầu thai), trông chừng con cháu. Chiều 30 tết, con cháu rước ông bà về ăn tết. Hết mùng 3 lại tiễn ông bà đi.
Nếu là hôn nhân khác tôn giáo, lứa đôi sẽ không tránh được những khác biệt này, và những tranh luận nhất định sẽ xảy ra. Tranh luận với người khác đức tin thì không thể tranh luận.
Và chúng ta học được Chúa nhiều điều về nghệ thuật tranh luận.
Xin đọc:
Thí dụ 1: Đức Giê-su và quỷ vương Bê-en-dê-bun (Mt 12, 22-32)
Bấy giờ họ đem đến cho Đức Giê-su một người bị quỷ ám vừa mù lại vừa câm.Người chữa anh ta, khiến anh nói và thấy được. Tất cả dân chúng đều sửng sốt và nói: “Ông này chẳng phải là Con vua Đa-vít sao?” Nghe vậy, những người Pha-ri-sêu nói rằng: “Ông này trừ được quỷ chỉ là nhờ dựa thế quỷ vương Bê-en-dê-bun”.
Biết ý nghĩ của họ, Đức Giê-su nói: “Bất cứ nước nào tự chia rẽ, thì sẽ điêu tàn. Bất cứ thành nào hay nhà nào tự chia rẽ, thì sẽ không tồn tại. Nếu Xa-tan mà trừ Xa-tan, thì là Xa-tan tự chia rẽ: nước nó tồn tại sao được? Nếu tôi dựa thế Bê-en-dê-bun mà trừ quỷ, thì đệ tử các ông dựa thế ai mà trừ? Bởi vậy, chính họ sẽ xét xử các ông. Còn nếu tôi dựa vào Thần Khí của Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông. Làm sao người ta có thể vào nhà một kẻ mạnh và cướp của được, nếu không trói kẻ mạnh ấy trước đã, rồi mới cướp sạch nhà nó? Ai không đi với tôi, là chống lại tôi; và ai không cùng tôi thu góp, là phân tán. Vì thế, tôi nói cho các ông hay: mọi tội, kể cả tội nói phạm thượng, cũng sẽ được tha cho loài người, chứ tội nói phạm đến Thần Khí sẽ chẳng được tha. Ai nói phạm đến Con Người thì được tha; nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần sẽ chẳng được tha, cả đời này lẫn đời sau”.
Nhận xét
- Đức Giêsu bác luận điểm “Ông này trừ được quỷ chỉ là nhờ dựa thế quỷ vương Bê-en-dê-bun” của người Pharisêu. Người dùng phép trùng điệp luận điểm (luận điểm nêu trước trở thành luận cứ cho luận điểm sau): “Bất cứ nước nào tự chia rẽ, thì sẽ điêu tàn. Bất cứ thành nào hay nhà nào tự chia rẽ, thì sẽ không tồn tại. Nếu Xa-tan mà trừ Xa-tan, thì là Xa-tan tự chia rẽ: nước nó tồn tại sao được?
- Đức Giêsu chuyển nhanh sang rao giảng Tin Mừng: “Còn nếu tôi dựa vào Thần Khí của Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông”.
- Đức Giêsu đi sâu vào tư tưởng của người Pharisêu cũng bằng một luận điểm trùng điệp với cách diễn đạt hàm nghĩa: “Tôi nói cho các ông hay: mọi tội, kể cả tội nói phạm thượng, cũng sẽ được tha cho loài người, chứ tội nói phạm đến Thần Khí sẽ chẳng được tha. Ai nói phạm đến Con Người thì được tha; nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần sẽ chẳng được tha, cả đời này lẫn đời sau”.
Nghĩa hàm ẩn: Đức Giêsu kết tội họ, vì thâm ý của họ nói Đức Giêsu là quỷ. Ngài cũng tỏ lộ Thần tính của mình là Con Người, và mối tương quan Ba Ngôi: “tôi dựa vào Thần Khí của Thiên Chúa mà trừ quỷ”.
Tính “triệt để” trong tranh luận của Đức Giêsu thể hiện ở chỗ Ngài thâm nhập vào tận tâm thức (tim đen) người Pharisêu, bóc trần thái độ xúc phạm đến Thần Khí của họ. Ngài cũng xác quyết lập trường tranh luận: “Ai không đi với tôi, là chống lại tôi”. Điều ấy hàm ý: Đức Giêsu là Thiên Chúa, chống lại Đức Giêsu là chống lại Thiên Chúa. Cho nên “ai nói phạm đến Thánh Thần sẽ chẳng được tha, cả đời này lẫn đời sau”.Nghe những lời này hẳng người Pharisêu phải dựng tóc gáy sợ hãi.
Thí dụ 2: Câu hỏi về quyền bính của Đức Giê-su (Mt 21, 23-27)
Đức Giê-su vào Đền Thờ, và trong khi Người giảng dạy, các thượng tế và kỳ mục trong dân đến gần Người và hỏi: “Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy ? Ai đã cho ông quyền ấy ?”
Đức Giê-su đáp: “Còn tôi, tôi chỉ xin hỏi các ông một điều thôi; nếu các ông trả lời được cho tôi, thì tôi cũng sẽ nói cho các ông biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy. Vậy, phép rửa của ông Gio-an do đâu mà có ? Do Trời hay do người ta ?”
Họ mới nghĩ thầm: “Nếu mình nói: “Do Trời“, thì ông ấy sẽ vặn lại: “Thế sao các ông lại không tin ông ấy?” Còn nếu mình nói: “Do người ta”, thì lại sợ đám đông, vì ai nấy đều cho ông Gio-an là một ngôn sứ”.
Họ mới trả lời Đức Giê-su: “Chúng tôi không biết“.
Người cũng nói với họ: “Tôi cũng vậy, tôi không nói cho các ông là tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy”.
***
Về nghệ thuật tranh luận, Đức Giêsu “dùng vũ khí kẻ thù để đánh lại kẻ thù”. Thượng Tế, Kỳ mục hỏi, Chúa không trả lời mà hỏi ngược lại một câu hỏi có nội dung tương đồng. Ngài yêu cầu họ trả lời trước. Và Đức Giêsu đã đẩy họ vào đường cùng: “Chúng tôi không biết“. Đức Giêsu lấy “không” để đối “không”. Họ “không biết” thì Chúa không trả lời họ.
Thực ra họ muốn “lật đổ Chúa” về mặt pháp lý: Đức Giêsu lấy quyền nào để giảng dạy trong đền thờ và ai cho Ngài quyền ấy”. Hỏi cũng là tự trả lời. Người Do Thái chứng minh rằng: Chúa không có quyền gì và không được quyền giảng dạy trong đền thờ. Nhưng họ không ngờ bị đẩy vào đường cùng: họ không trả lời được, thì cũng đồng nghĩa họ phải công nhận “quyền” của Chúa.
Câu hỏi của Đức Giêsu không chỉ là câu hỏi thông minh, câu hỏi kiến thức mà là câu hỏi về đức tin. Hàm ý trong câu hỏi của Chúa mà người Do Thái đọc được là: Quyền Gioan làm phép rửa là do Trời, nhưng họ không tin, không công nhận. Vì thế Đức Giêsu từ chối đối thoại với họ, những kẻ không có đức tin.
Để thực hiện nghệ thuật tranh luận này, Đức Giêsu hiểu rất rõ thâm ý và mục đích của người Do Thái, Ngôn ngữ tranh luận có nhiều hàm nghĩa. Cuộc tranh luận là một cuộc đầu trí (về pháp luật), đặt vấn đề căn cốt về vai trò và “quyền” của Đức Giêsu. Nếu ngày nay, chúng ta sẽ nói: Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, Ngài cũng là Thiên Chúa, đấng toàn năng, toàn quyền. (Điều này là tín lý-xin đọc Kinh Tin kính).
Vì thế, cuộc tranh luận trở thành cuộc loan báo Tin Mừng (hàm nghĩa).
Thí dụ 3: vợ ai trong số bảy người (Mt 22, 23-33)
“Hôm đó, có những người thuộc nhóm Xa-đốc, đến gặp Đức Giê-su. Nhóm này chủ trương không có sự sống lại.
Họ hỏi Người: “Thưa Thầy, ông Mô-sê có nói: Nếu ai chết mà không có con, thì anh hay em của người ấy phải cưới lấy người vợ goá, để gầy dựng một dòng giống cho anh hay em mình. Mà, trong chúng tôi, nhà kia có bảy anh em trai. Người anh cả lấy vợ, rồi chết, và vì không có con nối dòng, nên để vợ lại cho em. Người thứ hai, rồi người thứ ba, cho đến hết bảy người, người nào cũng vậy. Sau hết, người đàn bà ấy cũng chết. Vậy, trong ngày sống lại, bà ấy sẽ là vợ ai trong số bảy người, vì tất cả đều đã lấy bà ?”
Đức Giê-su trả lời họ:
“Các ông lầm, vì không biết Kinh Thánh, cũng chẳng biết quyền năng Thiên Chúa. Quả thế, trong ngày sống lại, người ta chẳng lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời. Còn về vấn đề kẻ chết sống lại, thì các ông không đọc lời Thiên Chúa đã phán cùng các ông sao? Người phán: Ta là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác và Thiên Chúa của Gia-cóp. Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống.”
Đám đông kinh ngạc khi nghe lời Người dạy”.
Nhận xét:
Nhóm Xa-đốc đặt vấn đề người đàn bà lấy 7 anh em trong một gia đình làm chồng, lúc chết, bà là vợ ai? Thực tâm họ không hỏi “để biết” mà hỏi để bắt bẻ Đức Giêsu. Câu hỏi của họ là một lập luận rất chặt chẽ về cấu trúc và logic về lý lẽ, mục đích diễn ngôn tăm tối. Có tiên đề nền tảng là lời Mô-sê. Có thực tiễn làm luận cứ, từ đó đặt vấn đề.
Đức Giêsu phủ quyết ngay tiên đề nền tảng của họ: Ngài nói: “Các ông lầm, vì không biết Kinh Thánh, cũng chẳng biết quyền năng Thiên Chúa”. Vì Kinh thánh và quyền năng Thiên Chúa thì cao trọng hơn lời Mô-sê. Khi tiên đề lý luận bị lật nhào thì toàn bộ lập luận cũng sụp đổ. Và ngay tức khắc Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng về sự sống, sự chết, về quyền năng Thiên Chúa. Tất cả là điều thuộc về đức tin. Ngài gạt bỏ khía cạnh trần gian của vấn đề.
V.RAO GIẢNG NGAY TRONG HOÀN CẢNH SINH HOẠT
Ba năm rao giảng, Đức Giêsu đã đi khắp nơi, tiếp xúc với nhiều hạng người, chứng kiến nhiều cảnh ngộ, đối mặt với nhiều vấn đề xã hội đòi phải giải quyết ngay…và Chúa vừa giải quyết vấn đề, vừa loan báo Tin Mừng ngay trong những hoàn cảnh ấy. Chúa không để cho hoàn cảnh cuốn mình theo những vấn đề trần tục, trái lại, dù hoàn cảnh ngặt nghèo thế nào, Đức Giêsu vẫn luôn tỏ mình ra là Đấng đến trong thế gian để cứu rỗi nhân loại và Ngài giáo dục công chúng đức tin ấy.
Vì thế giáo lý cuả Ngài là giáo lý thực tiễn, giáo lý vào đời, giáo lý hành động, giáo lý dẫn đường cho mọi vần đề cuả cuộc sống.
Xin đọc
- Đức Giê-su dùng bữa với những người tội lỗi (Mt 9, 10-13)
“Đức Giê-su đang dùng bữa trong nhà, thì kìa, nhiều người thu thuế và người tội lỗi kéo đến, cùng ăn với Người và các môn đệ.
Thấy vậy, những người Pha-ri-sêu nói với các môn đệ Người rằng: “Sao Thầy các anh lại ăn uống với bọn thu thuế, và quân tội lỗi như vậy?”
Nghe thấy thế, Đức Giê-su nói: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Hãy về học cho biết ý nghĩa của câu này: Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi“.
Nhận xét
Trong tình huống này, Đức Giêsu không để bị kéo vào dây dưa chuyện ăn uống, tranh luận. Ngài chuyển hóa ngay một việc trần tục (ăn uống với người thu thuế và người tội lỗi) sang việc loan báo Tin Mừng. Ngài khẳng định sứ mạng Cứu rỗi nhân loại: “tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi“. Ngôn ngữ lập luận bằng một luận cứ so sánh hết sức logic, thuyết phục.
Thí dụ 2: Nộp thuế cho Xê-da (Mt 22, 15-22)
Bấy giờ những người Pha-ri-sêu đi bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Đức Giê-su phải lỡ lời mà mắc bẫy. Họ sai các môn đệ của họ cùng đi với những người phe Hê-rô-đê, đến nói với Đức Giê-su rằng:
-“Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta. Vậy xin Thầy cho biết ý kiến: có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không ?”
Nhưng Đức Giê-su biết họ có ác ý, nên Người nói: “Tại sao các người lại thử tôi, hỡi những kẻ giả hình! Đưa đồng tiền nộp thuế cho tôi coi!”
Họ liền đưa cho Người một đồng bạc. Và Người hỏi họ: “Hình và danh hiệu này là của ai đây?”
Họ đáp: “Của Xê-da“.
Bấy giờ, Người bảo họ: “Thế thì của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”.
Nghe vậy, họ ngạc nhiên và để Người lại đó mà đi.
Nhận xét:
Đây là tình huống người Pharisêu định cài bẫy Đức Giêsu về chính trị: “có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không?. “Được phép có nghĩa là phù hợp với Luật Torah, phù hợp với ý Thiên Chúa. Nếu Đức Giêsu bảo cứ nộp thuế cho Xê-da (Xê-da là danh từ chung để chỉ hoàng đế của đế quốc Rôma), nhiều người Do-thái sẽ phản ứng, vì họ coi nộp thuế là một hành vi thần phục suy tôn mà họ chỉ muốn dành cho một mình Thiên Chúa. Nhưng nếu Đức Giêsu bảo không được phép nộp thuế cho Xê-da, Ngài sẽ bị kết án là chống lại đế quốc Rôma” (xem Lc 23,2). [[2]].
Đức Giêsu giải quyết vấn đề bằng một hành động. Ngài bảo họ xem hình và danh hiệu trên đồng tiền rồi kết luận dứt khoát: “Thế thì của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa“. Vấn đề chính trị chuyển hóa thành vấn đề tôn giáo. Đức Giêsu khẳng định dứt khoát mối quan hệ chính trị và tôn giáo. Sau này Đức Giêsu cũng trả lời Philato như vậy: –“Nước tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 18,. 33-38).
Về nghệ thuật ngôn ngữ, câu trả lời của Chúa trở thành như một phương châm chân lý ngàn đời. Từ vấn đề cụ thể (đóng thuế) Chúa nâng lên thành triết lý hành động, một chân lý thực tại. Từ ngàn xưa đến nay, khi nào tôn giáo tham gia chính trị, thì lúc ấy tôn giáo bị tha hóa. Vì thế người theo Chúa cần dứt khoát tư tưởng: “của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”
Thí dụ 3: Người phụ nữ ngoại tình (Ga 8, 1-11)
“Còn Đức Giê-su thì đến núi Ô-liu. Vừa tảng sáng, Người trở lại Đền Thờ. Toàn dân đến với Người. Người ngồi xuống giảng dạy họ.
Lúc đó, các kinh sư và người Pha-ri-sêu dẫn đến trước mặt Đức Giê-su một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình. Họ để chị ta đứng ở giữa, rồi nói với Người:
-“Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?”
Họ nói thế nhằm thử Người, để có bằng cớ tố cáo Người. Nhưng Đức Giê-su cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất. Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người ngẩng lên và bảo họ:
-“Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi.”
Rồi Người lại cúi xuống viết trên đất. Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi. Chỉ còn lại một mình Đức Giê-su, và người phụ nữ thì đứng ở giữa. Người ngẩng lên và nói:
– “Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?”
Người đàn bà đáp:
– “Thưa ông, không có ai cả.”
Đức Giê-su nói:
-“Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”
***
Nhận xét:
Đây là một tình huống đời sống thực tế đòi buộc Đức Giêsu phải giải quyết trực tiếp, phải hành động nhanh để cứu người phụ nữ và để làm sáng lên luật “yêu người” mà Ngài đã dạy; cũng đồng thời hóa giải những âm mưu đen tối của các kinh sư và người Pha-ri-sêu.
Thực ra “ngoại tình” là một vấn đề xã hội rất phức tạp. Bởi nó là vấn đề “con người”, cũng là vấn đề văn hóa, đạo đức và luật pháp. Luật Mô-se đã ghi rõ ràng: “người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó”.
Đức Giêsu chỉ nói một câu: “-“Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi.” Thế là tất cả bỏ đi. Rồi Đức Giêsu nói với người phụ nữ lời tha thứ.
Ngôn ngữ của Đức Giêsu đúng là ngôn ngữ của Ơn Cứu độ. Một Lời của Ngài đã cứu sống người phụ nữ. Một Lời của Ngài thức tỉnh bao nhiêu người tội lỗi, một Lời của Ngài chan chứa bao tình yêu cùa Lòng Chúa xót thương.
Tất nhiên, Lời của Đức Giêsu là Lời của một Đấng có trí tuệ, có tư tưởng, có nghệ thuật lập luận, ẩn chứa nhân cách và Thiên tính nữa. Lời ấy cũng là hành động, là diễn ngôn, là Ơn Cứu độ.
Thí dụ 4: Đức Giêsu bên giếng Giacop (Ga 4, 5-26)
“Vậy, Người đến một thành xứ Sa-ma-ri, tên là Xy-kha, gần thửa đất ông Gia-cóp đã cho con là ông Giu-se. Ở đấy, có giếng của ông Gia-cóp. Người đi đường mỏi mệt, nên ngồi ngay xuống bờ giếng. Lúc đó vào khoảng mười hai giờ trưa.
Có một người phụ nữ Sa-ma-ri đến lấy nước. Đức Giê-su nói với người ấy: “Chị cho tôi xin chút nước uống!”
Quả thế, các môn đệ của Người đã vào thành mua thức ăn.
Người phụ nữ Sa-ma-ri liền nói: “Ông là người Do-thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri, cho ông nước uống sao?”
Quả thế, người Do-thái không được giao thiệp với người Sa-ma-ri. Đức Giê-su trả lời:
“-Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: “Cho tôi chút nước uống”, thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị nước hằng sống.”
Chị ấy nói: “-Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu, vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống? Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ Gia-cóp chúng tôi, là người đã cho chúng tôi giếng này? Chính Người đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy.”
Đức Giê-su trả lời: “-Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.”
Người phụ nữ nói với Đức Giê-su: “-Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước.”
Người bảo chị ấy: “-Chị hãy gọi chồng chị, rồi trở lại đây.”
Người phụ nữ đáp: “-Tôi không có chồng.”
Đức Giê-su bảo: “-Chị nói: ‘Tôi không có chồng’ là phải, vì chị đã năm đời chồng rồi, và hiện người đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị đã nói đúng.”
Người phụ nữ nói với Người: “-Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ …”Tôi biết Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Ki-tô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự.”
Đức Giê-su nói: “-Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây.”
***
Nhận xét:
Đây là một đoạn đối thoại đời thường: Đức Giêsu xin nước người phụ nữ bên giếng Giacop. Lúc đó vào khoảng mười hai giờ trưa, Người mỏi mệt vì đi đường. Ngài ngồi ngay xuống bờ giếng. Các môn đệ đã vào thành mua thức ăn. Không rõ Đức Giêsu có thực xin nước vì khát hay đó chỉ là cớ để Ngài bắt chuyện với người phụ nữ Sa-ma-ri và “giác ngộ” cho chị về “nước hằng sống” và chỉ cho chị Đức Kitô. “-Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây.”
Tuy chỉ là một đoạn đối thoại đời thường, nhưng ngôn ngữ của người phụ nữ Samnari chứa một lượng tri thức Kinh thánh sâu sắc. Chị biết tổ phụ Giacop và giếng nước tổ phụ để lại. Chị cũng biết rõ giới hạn giữa người phụ nữ Samari và người Do Thái, biết cả về Đấng Kitô. Nhưng chị chưa biết “nước hằng sống” và Người sẽ cho chị nước ấy. Cho nên chị hiểu nước ấy theo nghĩa tường minh là nước sinh hoạt, nước để uống, mà chưa biết điều chị cần là Ơn Cứu Độ.
Đức Giêsu đã chuyển hóa một việc đời thường sinh hoạt (xin nước uống) thành một cuộc rao giảng Tin Mừng cho người muốn lắng nghe (chị phụ nữ Sanari khao khát nước Đức Giêsu hứa cho chị)
Vì là sinh hoạt đời thường, Đức Giêsu cũng nói chuyện đời thường, chuyện chồng con của chị: “chị đã năm đời chồng rồi, và hiện người đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị đã nói đúng.” Nghe Đức Giêsu nói thế, chị nhận ra Người là một tiên tri. Vấn đề là, từ chuyện xin nước uống, Đức Giêsu đã chuyển sang loan báo Tin Mừng về “ân huệ Thiên Chúa ban” đầy thuyết phục, đó là một nghệ thuật. Điều thuyết phục chị phụ nữ Samari là những gì Đức Giêsu nói rất cụ thể, rất đúng và cũng rất cao siêu uyên bác, đáp ứng đúng suy nghĩ, tâm trạng và hoàn cảnh của chị. Chị kinh ngạc mà thốt lên: “Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ Gia-cóp chúng tôi”.
Một điều thú vị là, người phụ nữ nói đến “giếng nước” hiện thực, nước để uống, đến hoàn cảnh xã hội chồng con, còn Đức Giêsu nói đền “nước hằng sống”, ngôn ngữ ẩn dụ, tượng trưng, ngôn ngữ của đức tin, hàm nghĩa thần học. Hai hình ảnh này song song, để sau cùng dẫn dắt người phụ nữ đến cội nguồn đức tin là chính đức Kitô đang hiện diện nói chuyện với chị.
Từ sinh hoạt đời thường này của Đức Giêsu, chúng ta học được bài học gì trong việc loan báo Tin Mừng?
VI. HUẤN LUYỆN ĐỨC TIN
Đức tin không phải tự nhiên mà có. Đức tin là ân sủng Chúa ban. Ơn đức tin cần được gieo vào lòng người, được nuôi dưỡng và thử thách (Dụ ngôn Người gieo giống: Lc 8, 4-15).
Có thể nói, một trong những việc Đức Giêsu tập trung làm trong suốt ba năm rao giảng là, tuyển chọn và huấn luyện đức tin cho 12 môn đệ. Kinh thánh Luca ghi nhận: “Đến sáng, Người kêu các môn đệ lại, chọn lấy mười hai ông và gọi là Tông Đồ. Đó là ông Si-mon mà Người gọi là Phê-rô, rồi đến ông An-rê, anh của ông; sau đó là các ông Gia-cô-bê, Gio-an, Phi-líp-phê, Ba-tô-lô-mê-ô, Mát-thêu, Tô-ma, Gia-cô-bê con ông An-phê, Si-mon biệt danh là Quá Khích, Giu-đa con ông Gia-cô-bê, và Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, người đã trở thành kẻ phản bội” (Lc 6, 13-16). Đức Giêsu gọi họ là anh em. “Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy, Thầy đã cho anh em biết”[I have called you friends, for all things that I heard from My Father I have made known to you](Ga 15, 15).
Đức Giêsu dạy các tông đồ về mầu nhiệm Ba Ngôi, về Con Thiên Chúa, về Nước Trời, về Con đường người mộn đệ phải đi qua, về tương lai phần thưởng sau này.
Xin nghe những lời cuối Đức Giêsu nói với các Tông đồ trước khi Ngài chịu nạn: Ga 13, 1-38; Ga 14, 1-31; Ga 15, 1-27; Ga 16, 1-33: “Thật vậy, chính Chúa Cha Yêu mến anh em, vì anh em đã Yêu mến Thầy, và tin rằng Thầy từ Thiên Chúa mà đến .Thầy từ Chúa Cha mà đến và Thầy đã đến thế gian. Thầy lại bỏ thế gian mà đến cùng Chúa Cha.”
Các môn đệ Người thưa: “…Giờ đây, chúng con nhận ra là Thầy biết hết mọi sự, và Thầy không cần phải có ai hỏi Thầy. Vì thế, chúng con tin Thầy từ Thiên Chúa mà đến.”(Ga 16, 27-30)
Trước đây Đức Giêsu từng hỏi các môn đệ: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?” Simon Phêrô thưa rằng: “Thầy là Ðấng Kitô của Thiên Chúa”. Và Người ngăn cấm các ông không được nói điều đó với ai mà rằng: “Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão, các thượng tế, và các luật sĩ từ bỏ và giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại”.(Lc 9, 18-22)
Đó là những tín đều căn cốt của đức tin Công giáo: Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, Người đến trong thế gian để cứu độ nhân loại. Ai tin điều ấy thì được cứu rỗi.
Người đàn bà bị băng huyết đã mười hai năm chỉ cần chạm đến áo Đức Giêsu thì đã được Chúa cứu chữa. Ngài nói với bà “Lòng tin của con đã cứu chữa con”(Mt 9, 18-26). Tôma và PhaoLô là hai vị đại thánh minh chứng cho đức tin Kitô giáo. Đức Giêsu nói với Tôma khi Người hiện ra: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin!” (Ga 20, 24-29).
Hành trình 2000 của Giáo hội là hành trình giáo dục đức tin Kitô giáo. Kinh thánh Cựu Ước và Tân ước, các nghi lễ, các kinh đọc, các lời giáo huấn, những cuộc tĩnh tâm…tất cả đều tập trung giáo dục Đức tin. Cuộc đấu tranh quyết liệt của Giáo hội với xã hội trần gian là cuộc đấu tranh để khẳng định và bảo vệ đức tin, loan báo Tin Mừng (các bè rối, thuyết tiến hóa, Chủ nghĩa Duy vật vô thần, chủ nghĩa thế tục, chủ nghĩa cá nhân…). Giáo hội làm điều ấy là tiếp tục công việc của Chúa Giêsu.
Vì thế Giáo hội đã học tập phương pháp huấn luyện của Đức Giêsu: chọn lọc các Mục tử, quy tụ các nhóm tông đồ. Họ là những người từ bỏ mình, chuyên tâm học tập Kinh thánh, dấn thân vào các hoạt động đức tin, sống lan tỏa như muối men trong đời, họ sống với nhau bằng tình yêu thương. Họ dám chấp nhận những thiệt thòi, kể cả bị bách hại vì Đức Kitô…
KẾT
Dù được rao giảng bằng lời, bằng hành động hay bằng các kinh sách, nghi lễ, các cuộc tĩnh tâm, các cuộc hành hương, thì cốt lõi của giáo dục Kitô giáo là giáo dục đức tin.
Để việc loan báo Tin Mừng đạt hiệu quả, người rao giảng cần học tập các nhân đức của Đức Giêsu, cần có một đức tin mạnh mẽ, kiên trung; và biết vận dụng các phương pháp rao giảng của Người. Và có thể, còn phải chấp nhận những thiệt thòi khi minh chứng đức tin.
Nhưng Đức Giêsu đã chúc phúc: “Phúc cho các con khi người ta ghen ghét, bách hại các con, và bởi ghét Thầy, họ vu khống cho các con mọi điều gian ác. Các con hãy vui mừng hân hoan, vì phần thưởng của các con sẽ trọng đại ở trên trời. Người ta cũng đã từng bắt bớ các tiên tri trước các con như vậy“(Mt 5,11-12)
Tháng 7/ 2025
_______________
[1] “Kinh sư” là người thông hiểu Luật, thực hành Luật và luôn trung thành giải thích Luật, vì thế “kinh sư” là người có uy tín và được toàn dân kính trọng. Pharisêu Là nhóm người trí thức, thượng lưu, thuộc thành phần lãnh đạo tôn giáo và chính trị. Họ tuân thủ nghiêm ngặt luật Thiên Chúa, giải thích Luật và áp đặt luật pháp trên dân chúng.
https://tgpsaigon.net/bai-viet/bai-38-kinh-su-va-pha-ri-seu-la-ai-%7C-duoi-anh-sang-loi-chua-71486
[2] Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.-Học hỏi Phúc âm: Chúa nhật 29 Thường niên năm A
https://tgpsaigon.net/bai-viet/hoc-hoi-phuc-am-chua-nhat-29-thuong-nien-nam-a-47744
Lc 23, 2: Họ tố cáo Người rằng: “Chúng tôi đã phát giác ra tên này sách động dân tộc chúng tôi, và ngăn cản dân chúng nộp thuế cho hoàng đế Xê-da, lại còn xưng mình là Mê-si-a, là Vua nữa“.