BẠN CÓ THỂ ĐỌC CÁC BÀI VIẾT CHÍNH CỦA BÙI CÔNG THUẤN THEO LINK: buicongthuan.blogtiengviet.net/disp/abc
***
THƠ CỦA LM. HỒNG PHÚC
THÁNH CA CỦA THƠ CA CÔNG GIÁO ĐƯƠNG ĐẠI
Bùi Công Thuấn
***
Lm Hồng Phúc[*] kể: “Tôi có xu hướng làm thơ từ hồi học lớp 2, bài thơ đầu tiên được chấm điểm 8 ở lớp đã khích lệ tôi hướng về văn thơ. Sau khi thụ phong Linh mục, tôi đáp ứng nhu cầu của các giáo họ và hội đoàn xin thi hóa tiểu sử của các thánh quan thầy. Có thể nói “Tập thơ Các Thánh” ra đời trong bối cảnh đó và được thực hiện vào những năm 1980-1985”.
TẬP “THƠ CÁC THÁNH”
Tập Thơ Các Thánh của Lm. Hồng Phúc gồm các bài viết về Chúa Giáng sinh, về Đức Mẹ Vô Nhiễm và các thánh: Các thánh Anh hài, Thánh Phêrô nền tảng Giáo Hội, Thánh Phaolô Tông đồ, Thánh Anrê Tông đồ, Thánh Gioan Tông đồ, Thánh Simong Tông đồ, Thánh I-nha-xi-ô, Thánh Phan-xi-cô Xaviê, Thánh Laurensô, Thánh Xê-xi-li-a, Thánh Antôn Pađôva. Dõi bóng Thầy Anrê Phú Yên, Các thánh Tử đạo Việt Nam, Cha thánh Khoan. Tác giả cho biết: “Những bài thơ các thánh được chuyển thể từ tiểu sử các thánh, những trang Tân Ước được thi hoá và suy niệm…Ước mong tập nhỏ này đem lại phần nào ích lợi cho bạn, và cho những ai thiện chí quan tâm”(Lời tựa tập thơ).
Như vậy Thơ Các Thánh của Lm Hồng Phúc có nguồn là tiểu sử các thánh và nguồn Tân Ước được thi hóa và suy niệm. Tác giả chỉ chuyển những câu chuyện thánh thành thơ, kết hợp với những suy niệm của mình. Mục đích của việc “chuyển thể” là “đem lại phần nào lợi ích” cho bạn đọc. Đó là những lợi ích tinh thần, lợi ích tâm linh, cụ thể đó là ơn Cứu Rỗi của Đức Giêsu lan tỏa qua cuộc đời các thánh theo góc nhìn khám phá riêng của tác giả. Thơ Các Thánh của Lm Hồng Phúc, trong bản chất sáng tạo, đã mang phẩm chất “thánh thiêng”. Đó không phải là thi ca thế tục để cảm nhận những mỹ cảm nghệ thuật, đó là “nghệ thuật thánh”, Cái Đẹp là chính Sự Cứu Rỗi. Bởi vì khi bạn cảm nhận được Cái Đẹp cuộc sống đạo và cuộc tử đạo của các thánh từ những bài thơ này, thì Cái Đẹp ấy là Cái Đẹp trọn hảo quy hướng về cuộc tử nạn và Phục sinh của Chúa Giêsu. Đó chính là cốt lõi tư tưởng Mỹ học Kitô giáo trong thơ của Lm Hồng Phúc.
Tôi gọi những bài thơ này là “Thánh ca của thơ ca Công giáo Việt Nam đương đại”, là vì, trước hết, mỗi bài thơ là một trường ca reo vui hân hoan, ngợi ca các thánh tử đạo về đời sống đạo hạnh, về đức tin kiên trung, về lòng dũng cảm phi thường và về cái chết vinh quang của người theo Chúa. Những bài “Thánh ca” này thuộc lại truyện thơ, có cốt truyện giàu tình huống, cách kể truyện hấp dẫn truyền lửa đức tin cho người đọc. Khi tiếp cận những bài “thánh ca” này, người đọc như được sống với bầu khí thơ ca truyền thống Việt Nam (Ca dao, Dân ca, truyện thơ khuyết danh). Bầu khí ấy có khả năng lan tỏa rất rộng trong cộng đồng vì tác giả hướng về cộng đồng dân Chúa để chia sẻ. Lời thơ là ngôn ngữ, giọng điệu tiếng Việt đời thường, nhập tâm người đọc tức thời. Nhà thơ thể hiện được tâm tình mộc mạc chân thành của nhà đạo, và làm sáng lên niềm tin kiên trung từ đầu nguồn Kinh thánh, trải qua suốt dòng lịch sử Giáo hội đến đầu thôn xóm vắng, và đến pháp trường đẫm máu tử đạo. Ở mỗi cuối bài trường ca còn có một đoạn “Thi ca cầu nguyện”, đoạn thơ ấy khi đọc lên, sẽ là cung giọng, tâm tình và niềm xác tín như khi người Công giáo đọc kinh văn hàng ngày. Đây chính là chỗ “thánh thiêng” khác của mỗi trường ca.
Xin đọc đoạn kết bài thơ Thánh Phê rô
Lạy ơn Thánh cả Phêrô
Chúng con thành kính tung hô danh Người
Giờ đang vinh hiển trên trời
Trần gian Giáo hội muôn đời nhớ ghi.
Toà nhà Giáo Hội lâm nguy
Có nền Đá thánh sợ gì phong ba.
Xin cho Giáo Hội gần xa
An bình sống đạo, hài hoà yêu thương.
Vươn lên thành một Thánh đường
Có nền Đá tảng can trường Phêrô.
Nóc là chính Đức Kitô
Kết liên thành bởi mạch hồ yêu thương.
Xin cho Giáo hội can trường
Cho Kitô hữu khang cường vững tâm.
Trọn đời theo bước thánh nhân
Lòng tin son sắt tinh thần hăng say,
.Hết lòng mến Chúa mỗi ngày,
Cùng Ngài hưởng Chúa đời này, đời sau./.
Điều rất lạ là, thơ của Lm Hồng Phúc thật hấp dẫn khi tác giả viết về những điều đã rất
quen. Hầu như người Công giáo Việt Nam nào cũng đã từng được nghe giảng về các thánh tông đồ trong Tân Ước, nghe kể về các vị Thừa sai đến rao giảng Tin Mừng ở phương Đông, nghe lịch sử các thánh tử đạo Việt Nam thời bách hại Quang Trung, Minh Mạng, Thiệu Trị Tự Đức… Các ngài đã được vinh danh. Điều gì làm nên vẻ đẹp ấy của thơ Hồng Phúc? Đó là chỗ kỳ diệu của nghệ thuật, và là sự độc đáo của một cá tính sáng tạo.
Có thể nhận thấy sức hấp dẫn của những bài “Thánh ca” của Lm Hồng Phúc được kết tụ từ nhiều vỉa tầng văn hóa Việt.
Đầu tiên là một cốt truyện hấp dẫn. Cuộc đời của các vị thánh là những câu chuyện mới lạ đối với giáo dân Việt Nam. Các thánh Tông Đồ được nhắc đến trong Kinh thánh, nhưng mấy người biết rõ về cuộc đời thánh nhân. Các vị Thừa Sai phương Tây đến Việt Nam truyền giáo đều là những người kiệt xuất. Những ngày đầu đến Việt Nam, các vị hết sức gian nan, đặc biệt trong 300 năm bị vua chúa phong kiến bách đạo, các vị đã sống thầm lặng và kiên vững việc loan báo Tin Mừng một cách phi thường. Những cuộc đời thánh nhân ấy ngày nay chúng ta khó hình dung nổi. Và đặc biệt là các vị thánh tử đạo Việt Nam, họ từ trong các thôn làng bước ra. Đơn sơ, mộc mạc và chân thành. Từ trong bùn đất ruộng đồng họ làm tỏa sáng khuôn mặt đức Kitô trước mặt nhân gian. Họ lẫm liệt bước lên đài tử đạo. Những “dân đen” ấy bỗng rực rỡ ơn phúc trường sinh giữa pháp trường.
Xin đọc: Thánh Đê-Phúc Nhạc, trong bài Các thánh tử đạo Việt Nam (178 câu),trích đọan 71 câu nói về bà thánh Đê:
“Thánh nữ duy nhất lại là
Thánh Đê Phúc Nhạc – oa gia tận tình.
Một bẩy tám mốt (1781) năm sinh
Bái Điền – Yên Định – tỉnh Thanh quê bà.
Nhưng là quê nội của cha
Mẹ quê Phúc Nhạc, nên bà theo ra.
Tuổi mười bẩy lên xe hoa
Hai trai, bốn gái, cả là anh Đê.
Quê có thói, đất có lề
Gọi tên con cả thay về tên riêng.
Ông bà Đê sống dịu hiền
Nuôi con trách nhiệm, dạy khuyên ân cần.
Giầu lòng thương kẻ cơ bần
Giúp Thừa sai ẩn những lần truân chuyên.
Một tám bốn mốt (1841) nguyên niên
Đời Vua Thiệu Trị ngự trên ngai vàng
Quan Tổng đốc Trịnh Quang Khanh
Dẫn năm trăm lính khắp làng bủa vây.
Bốn Thừa sai ẩn nơi đây
Hai Cha kịp thoát, hai đầy nguy nan:
Cha Nhân bị bắt mở màn
Kế là Cha Lý vừa sang khu vườn
Nhà bà Đê, trốn dưới mương
Oa gia cũng bị lên đường giải đi.
Thành Nam nổi tiếng một kỳ
Sáu ngày giam giữ, rồi thì khảo tra.
Roi đòn, thanh củi rách da
Đàn ông hết nổi nữa là nữ tôi
Nhưng nhờ ơn Mẹ trên trời
Tôi không đau đớn, mặc người tấn tra.
Bà Đê tâm sự thiết tha
Khi con thăm viếng, chồng ra ngỏ lời.
Hai, ba kỳ nữa luôn hồi
Lính vừa túm đánh, vừa lôi kéo bà
Qua Thánh Giá để được tha
Bà tuyên xưng Chúa, kêu la phân trần.
Túm tay áo lại, có lần
Quan thả rắn độc vào thân xác bà.
Vài vòng rồi rắn bò ra
Vì bà bình tĩnh nên bà vô can.
Bà bị đánh đập bạo tàn
Thân máu mủ vẫn dịu dàng vui luôn.
Và còn muốn chịu khó hơn
Đó lời nhân chứng tận tường nói ra.
Chị Nụ khi đến thăm bà
Thấy mẹ đau đớn liền oà khóc lên
Dịu dàng bà ngỏ lời khuyên
“Đấy là áo mẹ điểm thêm hoa hồng
Mẹ chịu vì Chúa vui lòng
Sao con nước mắt lưng tròng làm chi?
Hãy về sốt sắng thực thi
Đọc kinh, dự lễ và hy sinh nhiều
Cầu cho mẹ được sớm chiều
Vác Thánh Giá Chúa tin yêu đến cùng.
Chẳng bao lâu nữa Thiên cung
Mẹ con đoàn tụ hưởng chung phúc trời”.
Hồn bà thanh thoát thảnh thơi
Nhưng ngoài thân xác tả tơi điêu tàn.
Lại thêm kiết lỵ hoành hành
Sức càng suy kiệt, bệnh càng gia tăng.
Hai nữ tu cùng phòng giam
Hết lòng săn sóc lo toan cho bà.
Các Cha gửi thuốc thăm và
Xức dầu, giải tội rất là ủi an.
Cuối cùng trong chút hơi tàn
Phó hồn trong Chúa vẹn toàn ý Cha.
Sáu mươi tuổi vẫn nở hoa
Góp về vườn thánh chan hoà diệu quang.
Xác bà tẩm liệm vào quan
Do Nhà Chung cấp táng an pháp trường
Sáu tháng sau đã liệu phương
Cải táng Phúc Nhạc Nguyện đường hôm nay.”
Văn học Việt Nam trung đại chưa hề có những hình tượng nhân vật người phụ nữ như thế. Bạn đọc có thể so sánh Inê tử đạo vãn, Thánh Đê-Phúc Nhạc với Thúy Kiền (trong Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du), với Kiều Nguyệt Nga (Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu) để nhận thấy sự khác biệt này. Inê tử đạo và bà thánh Đê tử đạo là người Việt Nam, một nhân vật hiện thực, được miêu tả cụ thể trong một hoàn cảnh cụ thể, giữa cộng đồng gia đình, làng xóm, quan trường và bối cảnh thời kỳ bách đạo, tỏa sáng tư tưởng thần học và mỹ học Kitô giáo. Trái lại, Thúy Kiều, Kiều Nguyệt Nga là nhân vật Trung quốc, nhân vật hư cấu. Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu xây dựng nhân vật thể hiện tư tưởng và đạo đức phong kiến. Văn chương của Đoạn trường tân thanh và Lục Vân Tiên nằm trong trường thi pháp thơ Trung quốc, trái lạ những bài “Thánh ca” của Lm Hồng Phúc là những đóa hoa sen trong trường thi pháp thơ ca dân gian Việt.…
Xem xét kỹ hơn kiểu nhân vật trong thơ của Lm Hồng Phúc, Các vị thánh được miêu tả như những người bình thường, nhưng mang phẩm chất nhân vật anh hùng. Văn học Việt Nam có nhiều nhân vật anh: anh hùng Gióng (trong truyền thuyết), nhân vật Từ Hải (người anh hùng lý tưởng của Nguyễn Du trong trong Truyện Kiều), những anh hùng nông dân đánh giặc (trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu), cô Chí điên (trong Trùng Quang Tâm Sử của Phan Bội Châu), họ được miêu tả ước lệ theo khuôn mẫu văn học Trung quốc.…Trong “Thánh ca” của Lm Hồng Phúc, sức mạnh của các “anh hùng tử đạo” là đức tin kiên trung, là ơn khôn ngoan của Chúa Thánh Thần khi người giáo dân phải đối mặt với quyền lực trần gian và ngọn lửa lòng mến cháy rực có thể thiêu đốt mọi đau khổ của tù đày, nhục hình tra tấn dã man và của cái chết thê thảm, để hiến lễ trở nên tinh tuyền. Lm Hồng Phúc đã đem vào thơ ca Công giáo Việt Nam những nhân vật anh hùng mới tràn đầy sức lực như thế.
Cái chết của Simong:
“Và đây dòng máu chứng minh
Simong phải chịu cưa mình làm hai.
Ta-đê thì chúng lại sai
Lý hình thẳng cánh chém Ngài chết tươi.
Ôi dòng máu thắm đổ nơi
Pháp trường năm ấy muôn đời nhớ ghi.
Vinh thay Thiên Chúa uy nghi
Đẹp thay hai thánh chết vì Chúa chiên!
Lòng thành bất khuất trung kiên
Từ nay bừng sáng chiếu trên thế trần…”
Sức hấp dẫn của những “Thánh ca” của Lm Hồng Phúc còn được xây dựng trên âm hưởng những truyện nôm của văn học dân tộc. Người Việt nào cũng từng đọc truyện thơ Nôm: Đoạn trường tân thanh, Lục Vân Tiên, Bích câu kỳ ngộ,…Cái âm vang của những tác phẩm này đánh thức cái hồn thơ sâu thẳm lưu trú trong tâm khảm mỗi người khi đọc thơ Hồng Phúc. Thơ Hồng Phúc gần gũi lắm, gan ruột lắm, thánh thiêng lắm. Đọc xong thơ Hồng Phúc, người đọc nghiệm ra cái quý giá lạ lùng của thơ ca Công giáo là như thế nào. Bởi vì đó là tình thương Cứu Độ, là giá máu của cha ông chúng ta đã đổ ra để làm chứng cho đức tin, là sự chiến thắng thế gian, chiến thắng cái chết của những con người bé nhỏ hết sức lương thiện, và cũng là tâm nguyện của người theo Chúa hướng lên mỗi ngày (xin đọc thơ cầu nguyện ở cuối mỗi bài thơ).
Xin đọc trong âm hưởng thơ ca dân tộc: đoạn viết về Gioan tông đồ, lời thơ mộc nhưng đẹp.
“Có những lúc bôn ba rao giảng
Có những khi thanh thản nguyện cầu.
Khi thì dưới biển thẳm sâu
Khi trên đỉnh núi nhiệm mầu vinh quang.
Cả những lúc trong đoàn Tông sứ
Chúa chọn riêng đệ tử thân yêu
Tỏ nhiều mầu nhiệm cao siêu
Chứng minh phép lạ chữa nhiều bệnh nhân.
Luôn có mặt Gioan số đó
Giacôbê cùng với Phêrô
Những người thành tín đơn sơ
Bộ ba nghĩa thiết, tông đồ Chúa yêu.
Và được Chúa thương nhiều hơn hết
Vẫn Gioan trinh khiết trẻ trung…
Sức hấp dẫn của ngòi bút Hồng phúc trong những bài “Thánh ca” còn là sự điêu luyện của thể thơ Song thất-Lục bát. Mạch thơ tuôn chảy như giòng lũ không gì ngăn cản được. Nhạc thơ tự nhiên như nhạc của tiếng Việt, lúc thì thầm sâu lắng, lúc vút lên thinh không và lan tỏa đến khắp các bờ bãi, lúc lại rôm rả như những câu chuyện của người dân quê đầu mùa gặt hái nơi đồng nội. Vốn từ nhà đạo trong thơ Hồng Phúc khá giàu có, đặc biệt là vốn từ tạo nên hòa âm tráng ca, vốn từ đan dệt những lời tâm tình, vốn từ hội tụ sức mạnh khẳng định đức tin và khắc tạc những tượng đài tử đạo lẫm liệt của các vị thánh tử đạo. Cái chết dù dữ dội kinh hoàng, song dưới ngòi bút của Lm Hồng Phúc, lại trở nên hân hoan, rực rỡ hào quang và hết sức thăng hoa.
Xê-xi-lia tử đạo:
“Xê-xi bị kết án riêng
Nhốt trong phòng tắm kín liền ngạt hơi.
Nhưng nhờ ơn Đức Chúa Trời
Người quỳ bình tĩnh không ngơi nguyện cầu.
Quan truyền cho lính chém đầu
Ba lần lính chém vẫn hầu không sao.
Ba ngày trong vũng máu đào
Người còn khuyên giảng ai vào viếng thăm.
Cuối cùng thỏa nỗi khát mong
Chịu ơn Đức Thánh Cha xong, sinh thì.
Hai ngàn năm đã qua đi
Một năm chín chín (1599) sử ghi rõ ràng
Người ta khai mộ trong hang
Xác vì trinh nữ vẫn đang nguyên tuyền…”
Nói ngôn ngữ thơ Hồng Phúc mộc mạc chân chất, gần gũi với công chúng không có nghĩa nhà thơ không dụng công trong việc chọn lọc ngôn từ. Thơ Lục bát đòi hỏi một vốn từ giàu có để gieo vần. Người làm thơ Lục bát nếu nghèo vốn từ, sẽ gặp bế tắc ngay. Nhịp thơ 2/2/2 của Lục bát yêu cầu sử dụng những từ 2 chữ (từ ghép, từ láy) phù hợp. Nếu làm vỡ nhịp 2/2, sẽ làm hỏng nghĩa của từ ghép, và kéo theo sự sụp đổ câu thơ. Nhiều người làm thơ Lục bát không vượt qua được hiểm địa này. Thơ bị ép vần, phải dùng chữ sáo rỗng cho có nhạc, và nhạc luật lại bị bẻ gẫy một cách vụng về. Lm. Hồng Phúc vượt qua cái giới hạn “sơn cùng thủy tận” trong dùng từ, gieo vần, kết nhạc để viết những trường ca mượt mà, ngọt ngào, tươi thắm; thơ thăng hoa như gió ngàn như thác đổ mùa mưa lũ, phóng khoáng như mây bay đỉnh núi, vậy mà lời thơ vẫn mộc mạc, cốt truyện chặt chẽ, thơ không vuột bay vào thế giới lãng mạn. Nhà thơ biết mình đang nói chuyện với ai, rao truyền điều gì, chia sẻ tâm nguyện gì với người đọc. Trong sự kiến tạo phức tạp các yếu tố tự sự và sự dào dạt của cảm xúc, những tứ thơ đẹp đột nhiên xuất hiện, nối theo nhau như một đóa hoa thắm nở giữa đại ngàn xanh.
Đẹp biết bao dáng Môi-sê trên núi
Tay vươn cao như thẳng tới nước trời.
Đẹp biết bao tư thế một con người
Quỳ cầu nguyện dẫu đầu rời khỏi cổ !
Thực tình là, nói cái hay cái đẹp trong thơ của Lm Hồng Phúc là rất khó. Bởi Cái hay cái đẹp nằm trong toàn bài, và mỗi bài là một trường ca. Cắt khúc lấy ra một đọan để đọc thì chẳng khác nào cắt rời một phần chi thể. Đó sẽ là một chi thể chết. Sẽ không còn Cái Đẹp nữa.
Có một điều mà người đọc thơ của Lm Hồng Phúc có thể ít để ý, đó là sự uyên bác trong việc nhà thơ tổng hợp Kinh thánh. Chẳng hạn, trong bài Mừng Chúa Giáng sinh, tác giả đã Tổng hợp và “thi hóa” (Is 45,8), (Is 12,2), (Is 40, 3-5), (Is 12. 4-6), (Tv 18a,6), (Dt 1, 1-2), (1Ga 4,2), (1Ga 4,9), (Co1 1.17-20), (Lc 2,12). Việc tổng hợp này vừa để tạo dựng cốt truyện, vừa xây dựng nhân vật hoặc để suy niệm. Kinh thánh trở nên một nguồn mạch tự nhiên mà cả tác giả và người đọc cùng đắm mình trong đó, thế nên câu chuyện được kể và những lý giải của tác giả dễ dàng được người đọc chia sẻ. Nói cho đúng, những đoạn Kinh thánh được trích dẫn là những “Diễn ca” nằm trong cấu trúc truyện. Điều này giúp người đọc nhận ra năng lực “diễn ca” của Lm Hồng Phúc, nhưng ngài không chọn thể loại “diễn ca”, mà chọn thể loại tự sự (kể chuyện), bởi tự sự phát huy khả năng sáng tạo dồi dào của nhà thơ hơn. Xin đọc:
Kể từ nguyên tổ ngã thua
Chúa thương hứa Chúa Kitô cứu đời.
Không có thể hết lời diễn tả
Tổ phụ bao đời đã ước mong
Ngày đêm tha thiết đợi trông
Chúa Trời sinh xuống cứu dân tội tình.
Lời kêu gọi sinh linh tha thiết
Như lưu truyền qua hết mọi thời
Như mong nối kết đất trời
Isaia đã cất lời cao cung:
“Trời cao hỡi đổ sương sa xuống
Hỡi ngàn mây mưa Đấng công bình
Đất mau cứu độ nẩy sinh
Mở cho chính trực vươn mình lên cao” (Is 45,8)
Đêm hôm nay, đêm bao hạnh phúc
Đêm thoả niềm thao thức khát mong
Hoàn thành giao hứa tổ tông
“Như tân lang Chúa rời phòng viếng thăm” (Tv 18a,6)
“Thuở xưa Chúa nhiều lần nhiều cách
Dạy cha ông qua các tiên tri
Nhưng thời sau hết đây thì
Dạy qua chính Chúa diệu kỳ Ngôi Hai” (Dt 1, 1-2)
Đến đây, người đọc có thể nghiệm ra những giá trị đặc sắc trong tập “Thơ các thánh”
của Lm Hồng Phúc được kết tụ từ nhiều nguồn văn hóa, trước hết là tư tưởng Mỹ học Kitô giáo và nguồn cảm hứng vô tận là Kinh thánh. Những phẩm chất mới mẻ ấy của thơ Hồng Phúc triển nở trên nền thi ca truyền thống của dân tộc, và làm phong phú hơn dòng “Diễn ca”, dòng “Truyện thánh”, dòng “Kinh vãn” của văn học Công giáo truyền thống…và nói cho cạn nhẽ, những giá trị ấy xuất phát từ sự sâu sắc uyên bác của một đời thơ, ở cảm xúc dạt dào lửa mến trong lòng người Mục tử của Chúa và ở lòng nhiệt thành của một Ngôn sứ rao truyền Ơn Cứu Độ cho mọi người…
TẬP THƠ “NHỮNG BƯỚC SÓNG YÊU THƯƠNG”
Lm Hồng Phúc cho biết, ngài được vào Nhà Chúa ngày 14/09/1975. Đức Giám mục Phaolô Bùi Chu Tạo là người trực tiếp đào tạo và truyền chức Linh mục cho ngài ngày 22/03/1980. Sau 5 năm tại TGM Phát Diệm, ngài bị Chính quyền bắt đi quản chế tại một họ lẻ thuộc giáo xứ Ninh Bình. 4 năm quản chế (1985 – 1989) là thời gian ngài sáng tác các bài thơ thể hiện những suy tư đạo đức và tâm tình cầu nguyện…rất riêng, sau này biên tập thành tập thơ có chủ đề “Những bước sóng yêu thương”. Ngài thổ lộ: 25 bài đầu tiên như mỗi bước sóng hướng về kỷ niệm Ngân khánh Linh mục của ngài, và nếu Chúa cho ngài được mừng Kim khánh Linh mục thì ngài sẽ cố gắng sáng tác 50 bài để tạ ơn Chúa.
Những chi tiết về đời sống mục vụ của Lm Hồng Phúc tôi vừa nêu sẽ giúp người đọc hiểu được đôi đều về tập thơ Những buốc sóng yêu thương.
1.“Những bước sóng yêu thương”(44 bài) được sáng tác trong thời gian Lm Hồng Phúc bị quản chế (1985-1989), điều này có ý nghĩa gì? Ai đã sống những năm tháng từ 1975 đến thời “đổi mới”(1986) đều thấu hiểu những khó khăn lớn lao mà đất nước và người dân phải trải qua. Hậu quả của 30 năm chiến tranh, rồi bão lụt, mất mùa, cả nước phải ăn độn ngô khoai, bo bo. Sau đó là cải tạo Xã hội Chủ nghĩa ở miền Nam, chiến tranh biên giới phía bắc, phía Tây nam tổ quốc. Trên thế giới, các nước Xã hội Chủ nghĩa như Liên xô, Đông Âu sụp đổ, khiến cho Việt Nam lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Lm Hồng Phúc tu học rồi chịu chức Linh mục và sống đời Mục vụ trong giai đoạn hết sức khó khăn ấy (1975-1985), hẳn nhiên người sống Đời dâng hiến còn gặp khó hơn người dân nhiều. 4 năm ngài bị quản chế (1985-1989) phản ánh những khó khăn của hiện thực giai đọạn ấy.
Điều rất lạ là, thơ Lm Hồng Phúc làm trong giai đoạn ấy tuyệt nhiên không phản ánh cái bối cảnh lịch sử-xã hội, cũng không có lời than thở nào về hoàn cảnh riêng của ngài. Có chăng trong thơ, chỉ thấp thoáng một nét buồn thoáng qua nhưng lại tràn trề hy vọng.
“Đời dương thế nụ cười – nước mắt
Có vụ gieo, vụ gặt theo thời
Xuân qua, nắng hạ đến rồi
Bốn năm quản chế bùi ngùi xa quê”.
(40 năm hồng ân)
2. Có lẽ thời gian bị quản chế là thời gian Lm Hồng Phúc dành để suy tư, vì thế thơ trong “Những bước sóng yêu thương” bộc lộ nhiều nghĩ suy. Nhà thơ suy tư về những vấn đề gì? Lm Hồng Phúc thổ lộ: đó là “Những suy tư đạo đức và tâm tình cầu nguyện gói đọng trong những bài thơ rất riêng”. Nhan đề các bài thơ giúp người đọc nhận ra tâm tư của nhà thơ trong giai đoạn ấy: tâm tư quy hướng về Chúa: Chúa trong im lặng, Tin Chúa ở cùng, Chầu Thánh Thể, Tình yêu thánh giá, Của ăn là ý Chúa, Giêsu -lửa từ trời, Chỉ trong Đức Giê su Kitô, Tình Chúa tình con, Tình Cha, Tình Mẹ, Một đời tận hiến, Tình yêu thật, Tình yêu trinh khiết, Nét đẹp tâm hồn, Nét đẹp chân tu, Hiền lành, Khiêm nhường, Nên giống trẻ thơ, Ngọn nến cuộc đời, Thời gian, Con muốn, Bụi gai, Phúc lành của Cha.
Đó là hành trình tư tưởng của một Mục tử, của người sống “Một đời tận hiến” trước những biến động lớn lao của hiện thực. Căn cốt nhất vẫn là vấn đề sống đức tintrong đời thường.
Chúa ôi, con gọi tiếng âm vang
Chìm vào vũ trụ đoạn dần tan.
Tiếng con nấc nghẹn trong thống hối
Chúa có nghe chăng tiếng thở than?
(Chúa trong im lặng)
Bao nhiêu người theo Chúa đã cầu nguyện, đã thiết tha kêu nài, xin Chúa cho được
biết thánh ý Chúa, xin Chúa cho mình ơn này ơn kia…nhưng hầu như Chúa luôn im lặng. Trước sự im lặng của Chúa, con người rơi vào hư không! Chính Đức Giêsu trong thân phận con người trên thánh giá, đã từng rơi vào những giây phút ấy. Ngài kêu lên: “Ê-lô-i, Ê-lô-i, la-ma sa-bác-tha-ni!” Nghĩa là: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?”(Mc 15, 34). Cho nên đối diện với sự im lặng của Chúa chính là sự thử thách đức tin khó khăn nhất, đòi buộc mỗi người phải tìm cho được câu trả lời, có vậy đức tin mới kiên vững.
Vấn đề tư tưởng này được giải quyết thế nào? Người vững tin, sống phó thác, thì tự an ủi rằng, Chúa đã nói: “hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho” (Lc 11, 9-13). Người yếu đuối thì ngã lòng. Bài thơ “Chúa trong im lặng” của Lm. Hồng Phúc là một lý giải đầy thuyết phục. Trước hết, tác giả “tự giác ngộ” về sự im lặng của Chúa, và “khai tâm” cho người đọc về một Thiên Chúa rất thực, rất sống động, đang nói với mình trong im lặng.
Tác giả trích lời thánh Gioan Kim Khẩu để nêu một yêu cầu:
Khúc sông lặng chảy, trải màu xanh
Thường là sâu nhất dẫu hiền lành.
“Chúa luôn chỉ nói trong im lặng
Cho người nghe Chúa với lòng thanh”
Rồi Lm. Hồng Phúc khám phá thái độ im lặng của Chúa trong Kinh thánh: Chúa im
lặng lúc chịu phép rửa trên sông Gioóc-đan, “Người lên khỏi nước. Lúc ấy các tầng trời mở ra;…(Mt 3, 13-17); Chúa im lặng trên núi Ta-bor: “Núi Ta-bo Chúa tỏ vinh quang/ Tông đồ chiêm ngưỡng cảnh huy hoàng”; lúc Phê rô yếu đuối:
Chúa quay nhìn lại đầy trìu mến
Im lặng cháy lòng, suối lệ chan!
Trên đường thập giá, gặp Đức Mẹ, Chúa lặng nhìn. Và “Ba giờ thầm lặng trên Thánh
giá/ (Chúa) Yêu đến tận cùng chốn dương gian”.
Từ những suy nghiệm ấy, Tác giả chia sẻ:
“Chúa vẫn lặng im tựa biến tan,
Mênh mông trầm lắng vượt không gian
Chính từ im lặng ta nghe rõ
Tiếng của tình yêu Chúa Thiên đàng”.
Nói vậy để người đọc hiểu điều này, mỗi khi ta cầu nguyện với Chúa, đối diện với sự
im lặng của Chúa, thì hãy đặt mình vào những hoàn cảnh của Kinh thánh để nghe được tiếng Chúa: “Chính từ im lặng ta nghe rõ/ Tiếng của tình yêu Chúa Thiên đàng”. Chỉ cần chiêm ngắm Chúa thì đã thấy tầng trời mở ra, chỉ cần ở bên cạnh Chúa thì đã thấy vinh quang của Tabore, chỉ cần sự thống hối của Phêrô thì đã nhận được ơn tha thứ và chỉ cần kêu lên “Chúa ơi xin cứu con” như Phêrô lúc sắp chìm đắm (Mt 15, 30) thì sẽ được Chúa đưa tay đón lấy. Đấy là xác tín của Lm Hồng Phúc.
Nhưng tin thì chưa đủ, môn đệ Chúa còn phải có lòng Mến. Đức Giêsu đòi buộc: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi”(Mt 22, 37). Đức Giêsu đã hỏi Phêrô 3 lần: “Này anh Si-mon, con ông Gio-an, anh có Yêu mến Thầy không?” (Ga 21, 17). Phêrô ở bên Chúa, được Chúa dạy dỗ hàng ngày, thì tình cảm yêu mến Chúa dễ phát sinh. Đối với môn đệ Chúa hôm nay, sống cách xa Đức Giêsu hơn 2000 năm, lại rất khác về văn hóa, và chưa hề bao giờ được nhìn thấy chân dung thật của Đức Giêsu, có chăng chỉ là sự tưởng tượng qua các hình vẽ, vậy làm sao có thể yêu Chúa? Và nếu không có một tình yêu mãnh liệt, kiên trung với Chúa thì không thể sống đời dâng hiến. Lm Hồng Phúc đã viết nhiều bài về vấn đề tư tưởng này: Tình Chúa tình con, Tình Cha, Tình Mẹ, Tình yêu thánh giá, Tình yêu trinh khiết, Chỉ trong Đức Giê su Ki tô.
Trắng trong như tuyết như sương
Ngạt ngào như gió quyện hương hoa hồng.
Chảy tràn như một dòng sông,
Mới luôn như cảnh hừng đông chan hoà.
Chúa ơi, giờ phút thiết tha
Con nguyền làm nến, làm hoa bàn thờ.
Để yêu mến Chúa vô bờ,
Làm đèn chầu Chúa mọi giờ cháy liên.
Xin tha con hết tội khiên
Và ban ơn phúc siêu nhiên chan hoà.
(Chầu Thánh Thể)
Chúa yêu con, yêu quá sức Chúa ơi!
Biết lấy chi đền đáp Chúa trọn đời?
Con xúc động ngẹn lời không thành tiếng.
Sống mãnh liệt tình yêu ngày tận hiến
Nguyện đời con như ngọn nến hôm nay.
Trên Bàn Thờ đầy lửa cháy ngất ngây
Con mãi mãi đắm say đời tận hiến.
(Ngọn nến cuộc đời)
Nhà thơ lý giải lòng mến của mình. Xin chú ý cách lập luận tương phản (Cha/Con), cách đưa dẫn chứng (Ga 15, 13), cách nêu vấn đề và kết luận, và các từ nối dùng trong văn nghị luận: Nhưng, vì, chính vì, Chính là:
Khi suy nghĩ cực hình Cha đau khổ,
Con bùi ngùi thấy xấu hổ bản thân,
Đau thương con thật nhỏ bé vô ngần
Nhưng con lại muốn ngàn lần xa tránh.
Trong khi đó Cha một mình nhận lãnh
Một mình Cha chịu đựng cảnh cô đơn,
Thật mình Cha là tột đỉnh tình thương
Vì đau khổ và yêu đương là một!
Chính vì thế trong chương trình cứu chuộc
Cha dạy: “Không tình nào vượt tình yêu
Của người dám thí mạng sống cao siêu
Hiến trọn vẹn vì tình yêu bạn hữu.” (Ga 15,13)
Đây Thánh Giá mà chính Cha gánh chịu
Con lặng nhìn và thấu hiểu tình yêu,
Chính là tình rất quảng đại cao siêu
“Hiến trọn vẹn vì tình yêu bạn hữu”!
Nhà thơ hứa với Chúa:
Ơn cha ban nay con xin ghi tạc
Cảm tạ Cha con ca hát đêm ngày,
Dâng lên Cha lòng yêu mến đắm say
Hứa với Cha sống từ nay mãnh liệt.
Con yếu đuối nhưng chính Cha đã biết
Con bội ơn Cha vẫn thiết tha yêu
Đây tim con giờ ân phúc sớm chiều
Xin dâng trọn với bao nhiêu cảm tạ!
Để yêu mến Chúa, người theo Chúa trước hết phải cảm nhận được tình Chúa yêu ta là
vô cùng lớn lao, phải hiểu được những hy sinh của Chúa tất cả là vì ta, và phải ý thức được Chúa mong ta trở về với Chúa (dụ ngôn người cha nhân hậu-Lc 15, 11-32), nói một cách cụ thể, người theo Chúa phải lấy tấm lòng của một người con, hiểu rõ tình thương yêu, sự hy sinh của cha mẹ và những ước vọng của cha mẹ với con, lúc ấy mới có thể thương yêu sâu sắc cha mẹ mình. Đó là những khám phá và trải nghiệm của Lm Hồng Phúc trong thơ và trong đời thực về đức Mến đối với Chúa.
Vấn đề tư tưởng thứ ba được Lm Hồng Phúc đặt ra và giải quyết đó là người Mục tử
sống thế nào trong bối cảnh hiện thực của đất nước, của thời đại mình? Kinh thánh dạy rằng, người Mục tử sống giữa đoàn chiên, là người chăn dắt đoàn chiên của Chúa. Đó là sứ mệnh không thể né tránh. Đức Giêsu đã nói với các môn đệ: “Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói”(Lc 10, 3). Và Người cũng tiên báo “Phúc cho anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa” (Mt 5, 11). Và hẳn Lm Hồng Phúc đã trải qua những hoàn cảnh cụ thể như lời Chúa dạy (?). Vì thế Lm Hồng Phúc đã chọn lựa một thái độ sống theo Kinh thánh. Tác giả viết các bài thơ: Hiền lành, Khiêm nhường, Nên giống trẻ thơ, Ngọn nến cuộc đời, Nét đẹp tâm hồn, Nét đẹp chân tu, Thời gian, Con muốn…
Đời cầu nguyện sớm trưa, chiều tối
Cùng tâm tình sám hối canh tân…
Bôn ba, xuôi ngược dặm trường
Gọi mời, vun đắp tình thương Nước trời.
Tôi xúc động những gì của Chúa,
Tình yêu thương muôn thuở của Người,
Ưu tư cuộc sống hiện thời
Thiếu Lời Hằng Sống, thiếu đời nội tâm.
Nghĩ quá khứ: tri ân cảm tạ.
Nghĩ tương lai: trao cả tin yêu.
Hiện thời: sứ vụ bao nhiêu
Cậy trông nơi Chúa ban nhiều ơn thiêng
(40 năm hồng ân)
Thế giới này chứa đầy mâu thuẫn
Nói hoà bình lại muốn chiến tranh.
Yêu thương mà vẫn bạo hành.
Chủ trương hợp nhất rồi đành phân ly.
Các cộng đoàn cũng y như thế
Là một nhà chia rẽ hai, ba.
Ngay trong thân xác chúng ta
Cũng chia lành dữ, chính tà phân tranh.
Thánh Phaolô chân thành bày tỏ:
“Trong tôi nhận thấy rõ luật này
Việc lành: biết lại buông tay
Điều coi là xấu lại hay cứ làm.
Khốn thân tôi xác phàm nhục dục
Ai cứu đời trần tục giúp tôi” (Rm 7,15-24).
“Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi
Hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn”(Tv 62,2)
(Chỉ trong Đức Giêsu Kitô)
…Xin cho con:
Được sống trong biển tình yêu chan chứa,
Được đắm chìm trong Chúa suối tình thương.
Được khiết trinh như huệ trắng ngát mùi hương.
Được trong trắng giữa đời vấn vương tội lỗi.
Xin Chúa nhận con:
Như giọt lệ của Ma- đa- lê- na thống hối
Như nai rừng bên nguồn suối tình thương
Như Gioan thổn thức nỗi sầu vương.
Và như người trinh nữ khôn ngoan
trên bước đường đón Chúa.
(Một đời tận hiến)
Và người Mục tử đã tìm thấy hạnh phúc hân hoan trên bước đường truyền
giáo của mình:
“…Sức còn trẻ thoả thuê chính xứ
Kiêm Quảng Nạp, Yên Thổ không xa
Quảng Phúc, Bình Hải một nhà
Đức ông Thiều trước, tôi là hậu sinh.
Vùng Sơn thuỷ hữu tình thoáng đãng
Giáo dân hiền, lo lắng phần hồn
Năm năm không có ngày buồn
Thể thao, cây cảnh cũng luôn đồng hành.
Những mùa đông tốt lành, thánh thiện
Giáng Sinh về hội diễn bình dân
Múa ca, hoạt cảnh, thơ ngâm
Tình người, tình Chúa âm thầm giao duyên…”
(40 năm hồng ân)
Như vậy, tập thơ “Những bước sóng yêu thương” đã đặt ra và giải quyết 3 vấn đề tư tưởng căn cốt của người môn đệ Chúa trong hoàn cảnh thực tại Việt Nam. Xin lưu ý, thơ của Lm Hồng Phúc không phải là thơ tư tưởng (tức là thơ thể hiện những tư tưởng triết học). Đó là suy tư về Đức Tin, lòng Mến và sự cậy trông nơi Chúa với tấm lòng của người con đối với Cha và Mẹ (bài Tình Chúa tình con, Tình Cha, Tình Mẹ). Thực ra nói như thế mới chỉ là phân tích vấn đề bằng lý trí nhận thức, chưa đủ để hiểu thơ của Lm Hồng Phúc (tập Thơ Các Thánh), cũng như không thể hiểu được thái độ sống đạo của hàng trăm ngàn giáo dân Việt Nam đã tử vì đạo (thời Tây Sơn , Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức). Còn một yếu tố chi phối toàn cục là yếu tố tâm linh. Đó là Ơn Chúa: Ơn Đức Tin, ơn của Chúa Thánh Thần. Yếu tố tâm linh này nằm sâu bên dưới những suy tư và không thể lý giải. Đức Giêsu nói: “…vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15, 5). Cho nên, trong mọi hoàn cảnh, thơ của Lm Hồng Phúc luôn vang lên lời cảm tạ Ơn Chúa.
Con quỳ gối đến muôn đời cảm tạ.
Con nguyện hứa dõi bóng cờ Thánh Giá.
“Trái tim con xin cắm cả hai tay” (ĐHV 445)
Trên vai con trung thành vác mỗi ngày
Con theo Chúa từng giây đời thánh giá./.
(Tình yêu Thánh giá)
Tập thơ “Những bước sóng yêu thương” cũng có những bài “Huấn ca” (Sao nghi ngờ, Sao chẳng có Đức tin, Hiệu năng cầu nguyện, Truyền giáo), và những bài thơ thế sự (Ơi Huế thân thương, Con thuyền với bão Covid, Sài gòn ơi thương lắm, Hướng về Trung Lao, Năm canh gà gáy, Hành trình sa mạc xưa và nay, Sa mạc cuộc đời, Biển, Mênh mông, Về nguồn) nhưng đó không phải là những chủ đề chính của tập thơ.
Thơ trong “Những bước sóng yêu thương” nhiều bài thuộc thể thơ 7, 8 chữ, kiểu Thơ Lãng mạn, song tuyệt nhiên thơ Hồng Phúc không chịu ảnh hưởng gì của thơ Lãng mạn. Nhiều bài nghiêng về sự chuẩn mực của thơ Thất ngôn Đường luật. Thơ đề cập đến những vấn đề tư tưởng hầu hết được cấu trúc theo kiểu tư duy chính luận: có lập luận, lý giải, dẫn chứng, có rút ra bài học nhận thức và hành động. Thơ hướng đến sự “giác ngộ” của chính tác giả và lan tỏa đến người đọc. Ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ trực tiếp, ngôn ngữ của nghĩ suy, ngôn ngữ bàn luận, không phải ngôn ngữ hình tượng. Vì thế chất nghệ thuật của những bài thơ này chỉ thể hiện ở sự khám phá những tư tưởng mới, ở sự uyên bác, sắc xảo của trí tuệ; không phải là ở những rung động cảm tính như thơ trữ tình (Xin đọc: Của ăn là ý Chúa, Chúa trong im lặng, Tình Cha. Bài Tình yêu chân thật chỉ có ý tưởng mà không có tứ thơ). Thế mạnh của Lm Hồng Phúc là trường ca Lục bát, Song thất lục bát trong thi pháp Ca dao.
ĐỊNH VỊ MỘT KHUÔN MẶT THƠ
Lm Hồng Phúc còn tập thơ “Hành hương-Du lịch” và các tập bút ký: Việt Nam-Rôma máu chảy về tin, Bên đường thiên lý, Cảm xúc miền đất thánh, Fatima trải nghiệm ơn thiêng. Song do khuôn khổ bài viết đã dài, tôi sẽ giới thiệu tiếp những tác phẩm còn lại của Lm Hồng Phúc trong một dịp tới.
Hai tập thơ Thơ Các thánh và Những bước sóng yêu thương đủ để khẳng định một khuôn mặt thơ Công giáo có những nét riêng. Những trường ca Song thất Lục bát, thể truyện ca trong thi pháp Ca dao của Lm Hồng Phúc là những “Thánh ca” của thi ca Công giáo. Tác giả cũng đặt ra và giải quyết một cách mới mẻ, đầy thuyết phục những vấn đề tư tưởng mà người theo Chúa luôn gặp phải.
Ở một phương diện khác, thơ và thái độ chọn lựa lối sống theo Tin Mừng của Lm Hồng Phúc có thể là một thái độ tiêu biểu mà người sống “Đời dâng hiến” đã chọn lựa trong hoàn cảnh cam go của đất nước (1975-1990).
Để hồn thơ bay lên:
Bôn ba, xuôi ngược dặm trường
Gọi mời, vun đắp tình thương Nước trời.
(40 năm hồng ân)
Tháng 1/ 2023
______________________
[*] Hành trình 40 năm Mục vụ của Lm Hồng Phúc:1980 -1985: Phát Diệm, Phương Thượng, Hướng Đạo, Ứng Luật, Hòa Lạc, Phú Hậu, Tôn Đạo.
1985 – 1998: Ninh Bình, Áng Sơn, La Vân, Hào Phú. Hoàng Mai, Thiện Dưỡng .
1999-2004: Bạch Liên, Quảng Nạp, Quảng Phúc, Bình Hải, Yên Thổ.
2004 – 2012: Phát Diệm, Trì Chính, Phát Vinh, Yên Bình.
2012-2019 : Cách Tâm, Xuân Hồi.
2019 đến nay: Khiết Kỷ, Dục Đức